TÌM HIỂU VÀ NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ - Phần 12/15
Lm. Tôma Thiện Trần Minh Cẩm, OP.
----------
PHẦN III:NHỮNG QUAN NIỆM TRIẾT LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC CĂN BẢN CỦA ẤN ĐỘ
CHƯƠNG II: VŨ TRỤ QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN CỦA ẤN ĐỘ GIÁO
II. TỰ DO VÀ ĐỊNH MỆNH HAY LÀ LUÂN HỒI NGHIỆP BÁO VÀ GIẢI THOÁT
Có thể nói tất cả nền luân lý đạo đức Ấn Độ được xây dựng trên quan niệm về luân hồi nghiệp báo.
Luân hồi là gì ?
Theo Phạn ngữ Samsâra do hai chữ Sam và chữ Sâra ghép lại mà ra. Sam là tiếp đầu ngữ rất thông dụng trong Phạn ngữ và có nghĩa là: hoàn toàn, đúng như, đồng thời, cùng nhau; Sâra là tiếng chỉ chủ thể phân tách hay hủy diệt. Samsâra có nghĩa là một sự kiện biến chuyển, chuyển rời từ trạng thái này qua trạng thái khác, từ kiếp sống này qua kiếp sống khác. Sau hết, Samsâra còn được dùng để chỉ cõi đời biến đổi này đổi lại với cái gì bất biến bất dịch là Nirvâna, Niết bàn.
Về nguồn gốc của thuyết luân hồi, các học giả thường nêu ra nhiều giả thuyết, người thì nói rằng nó có ngay từ thời Veda và là một thuyết đã khai sinh bên Ấn, người khác lại chủ trương rằng đó là một thuyết ngoại lai đã được nhập cảng từ Hy Lạp, từ Âu Châu, hay là từ dân Arya… Nhưng điều đó không có gì là chắc chắn cho lắm. Điều chắc chắn là thuyết nà đã có bên Ấn Độ một cách rõ rệt ít nhất là từ thời Áo nghĩa thư, chẳng hạn như trong những tập Brhadâranyaka (VI, II, 15-16), Shândogya (VI, 8, 16), Cvetâcvatara (I,7; IV,11-17, V,7,11-12)…Và như chúng ta đã biết, thuyết ấy không những trở thành một “tín điều” chung cho hầu hết các hệ thống triết học hay tôn giáo Ấn độ, cho dù các hệ thống hay tôn giáo này nhiều khi bất đồng quan điểm hay chống đối nhau về những vấn đề khác. Sau hết, cho tới ngày nay “tín điều” này vẫn còn là một chân lý tuyệt đối cho phần đông dân chúng Ấn độ.
Trên đây chúng ta đã định nghĩa cho chữ Samsâra. Bây gời chúng ta tìm hiểu xem kinh điển đã nói thế nào về vấn đề này.
Trong sách Luật Visnu có nói: “Những ai đã sinh ra đều chắc là sẽ chết, mà những ai chết sẽ đều chắc là phải tái sinh” (XX,29); Trong Râmâyana (II, 84,21) và trong Chí tôn ca (Bhagavadgita II,2) cũng nói tương tự rằng: “Thật ra, chết đó là chắc đối với ai sinh ra, và (tái) sinh là chắc đối với ai chết đi”! Nhưng câu định nghĩa đầy đủ nhất về Samsâra là của Nagasêna; nhà sư Phật tử đã đối thoại với vua Hy Lạp Milinda: “Samsâra có nghĩa là: một hữu thể sinh ra chỗ này rồi lại chết đi chỗ khác, và sau khi chết nó lại (tái) sinh chỗ kia; sinh ra chỗ ấy, nó lại chết, và chết rồi nó lại (tái) sinh chỗ nọ” (III, 6,9).
Nhưng luân hồi cũng có nhiều kiểu, nếu chỉ luẩn quẩn trong kiếp người, nghĩa là nếu người ta cứ chết đi rồi lại đầu thai tái sinh làm người khác thì gọi là… tái sinh. Còn nếu tái sinh mà có thể làm “thân trâu ngựa” thì đó mới đáng gọi là luân hồi:
“Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít cho người dở dang.
Thê hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phủ phàng với hoa!
Trời Liêu non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi!
Biết bao duyên nợ thề bồi,
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai”.
(Kiều, 669-708)
Métempsychose theo Platon
Chúng ta nên nhớ rằng, thuyết Métempsychose của Platon cũng giống thuyết luân hồi ở chỗ nó chủ trương người ta có thể tái sinh làm người hay bất cứ giống vật gì. Chẳng hạn trong Phèdre (80 e; 82 d tt) có nói rằng những linh hồn ngoan ngoãn và trong trắng sau khi chết sẽ được về chung sống với các thần thánh; nhưng các linh hồn dơ bẩn, đã theo nguyện vọng của cơ thể vật chất sẽ bị phát vãng đi lang thang cho đến khi tìm được một cơ thể mới để nhập vào. Và chứng nào hoàn chứng ấy, linh hồn của những người mê ăn uống hay của những người vô liêm sỉ thì sẽ tái sinh làm thân con lừa. Linh hồn của những bạo chúa và của những quân cướp sẽ tái sinh làm lang sói, làm diều hâu. Còn những linh hồn tuy không trong sạch lắm nhưng xưa kia đã có nhiều nhân đức: có tinh thần cộng đoàn và xã hội thì sẽ hoặc tái sinh làm ông, hoặc làm tò vò hay kiến. Chỉ có linh hồn các triết gia mới được giải thoát khỏi thân xác. Bởi vì triết học âu yếm đem lại cho linh hồn triết gia mọi lý lẽ nó giải thoát triết gia khỏi những ảo mộng gây ra bởi ngũ quan.
Đối với loài vật cũng thế. Chúng có thể hoặc tái sinh làm người, hoặc tái sinh làm một loài vật khác: các con vật bất công bất chính, thì tái sinh làm kiếp thú rừng; các con vật trung chính, trái lại sẽ tái giáng làm những con vật hiền từ… (cf. Cộng hòa, Thần thoại Er.6 I 4 b).
Samsâra theo Ấn Độ
Còn theo thuyết Samsâra của Ấn độ, thí dụ như trong Áo nghĩa thư có nói rằng: “Ai đã học các kinh Veda theo quy luật, ai đã luôn nhớ kỹ các kinh đó bằng cách lặp đi lặp lại; ai đã giáo dục con cái cho nên đạo hạnh, ai đã làm cho giác quan quy phục linh hồn, tỏ lòng từ bi đối với mọi vật thì sẽ được đi về thế giới của Brahman và sẽ không còn tái sinh nữa” (Chândogya Up. VI,8,16). Cũng thế, những nhà ẩn tu mà có tài trí và có đức tin thì sẽ đi về phía các thần, và tới Brahman; đức ông chồng nào biết lễ cúng và làm việc thiện thì sẽ đi qua đường các tổ phụ để tới cung trăng, và chờ đợi đến khi trả hết nghiệp báo thì lại trở về tái sinh trước hết làm một cây, sau đó lại tái sinh trong một thân người. Trái lại, những người xấu nết sẽ tái sinh làm những hạng người vô giai cấp (hos cantes), làm chó hay làm heo! (cf. Brhadâranyaka Up. VI; II, 15-16).
Samsâra và Karma
Nhưng giữa thuyết Métempsychose của Platon và thuyết Samsâra của Ấn Độ có một điểm khác biệt quan trọng, đó là thuyết Samsâra của Ấn Độ gắn liền với thuyết nghiệp báo (Karman) mà đây là định lý: “punyena vai punyena karmanâ bhavati, pâpah pâpena: người ta trở nên tốt nhờ hành vi tốt, trở nên xấu bởi hành vi xấu (B.A.U.III, 2,13;cf. IV,5)
Đã hẳn là theo thuyết Métempsychose, người ta sỡ dĩ tái sinh làm người hay làm vật, tốt lành hay dữ tợn cũng là do hành động của mình trong kiếp trước. Tuy nhiên, Platon đã không đề xướng một thuyết Nghiệp quả rõ rệt như Ấn độ.
Thật vậy, Karman được Ấn Độ quan niệm như một thứ nghị lực ở trong một thứ vật chất tinh vi bám chặt vào âtman của mỗi con người hay bất cứ một vật sống động nào (cf.Matitry Up.3,1); thứ vật chất tinh vi này sẽ tiếp tục còn mãi ngay cả khi mọi thể chất nơi con người tiêu tan vào trong các yếu tố căn bản cấu tạo nên vũ trụ vạn vật, tức là Đất, Nước, Lửa, Không khí (B.A.U.III,2,13); chính cái Karman này sẽ quyết định số phận của mỗi vật sống động sau khi nó chếtơ4SCvetâcvatara Up.5,7), và ấn định cấp bậc hiện hữu cùng trạng thái cuộc hiện hữu mà người hay vật ấy sẽ trở thành (Chândogya Up.V,I0,7); (Kausitaki Up. 5,7). Tóm lại, chính cái Karman này nó làm cho người ta trở thành nô lệ cái vòng luân hồi luẩn quẩn (cf. Maitry Up.4,2).
Con người “tự do” theo Sartre
Những triết gia hiện sinh ngày nay, như Sartre chẳng hạn cũng chủ trương rằng: “L’homme n’est rien d’autre que ce qu’il se fait”, nghĩa là “L’homme est, non seulement tel qu’il se concoit, mais tel qu’il se veut” (L’Existentialisme, Nagel, Paris, 1965, tr.22 cf.tr.55). Nói khác đi, triết lý hiện sinh cũng giống triết lý Ấn độ, nhất là triết lý Phật giáo ở chỗ nó là một triết lý về hiện thể (hay hành vi, philosophie de l’acte) hơn là một triết học về bản thể hay bản tính (philosophie de l’essence):Sarté chẳng hạn đã nói: “Il n’y a de réalité que dans l’action…l’homme n’est rien d’autre que son projet, il n’existe que dans la mesure où il se réalise, il n’est donc rien d’autre que l’ensemble de ses actes, rien d’autre que sa vie…” (op.cit.tr.55). Nhưng Sartre không tin có luân hồi, và vì thế Sartre không thể chấp nhận thuyết nghiệp báo. Cái triết lý về hiện thể của ông chỉ có ý nghĩa đối với cuộc hiện sinh của ta mà thôi; trái lại, cái Karman, theo quan niệm Ấn Độ sẽ theo đuổi con người mãi mãi từ kiếp này sang kiếp khác, trừ khi người ta được hoàn toàn giải thoát.
Thực ra, điều mà Sartre muốn nói chính là “con người hoàn toàn chịu trách nhiệm về cái nó là như thế” (op.cit.tr.24), nghĩa là chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình, về mọi hậu quả của hành động của mình, tóm lại, về tất cả cuộc hiện sinh của mình. Như thế nghĩa là con người hoàn toàn tự do định đoạt lấy số mệnh của mình. Con người là tự do (op. Cit.tr.36-37), nhưng đó là một thứ tự do “bắt buộc”…: L`homme est condamné à être libre. Con người bị kết án phải tự do, bởi vì nó đã không tự tạo ra mình, nó đã không tự sinh ra mình (id).
Theo Sartre thì không có vấn đề định mệnh (déterminisme), bởi vì không ai, không có gì có thể định trước cái kiếp hiện sinh của chúng ta: không có Thượng Đế mà cũng không có Karman. Quan niệm Ấn Độ trái lại dung hòa tự do và định mệnh. Con người hoàn toàn tự do và hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành động và mọi hậu quả của hành động mình. Nhưng chính hành động (karman) sẽ ấn định cái kiếp sống mà chúng ta sẽ phải chuốc lấy, và một khi đã rơi vào cái kiếp mà do nghiệp báo ấn định, người ta không thể nào tự do thay đổi: Chẳng hạn nếu nghiệp báo bắt tôi tái sinh làm thân trâu ngựa thì tôi chỉ có thể làm trâu ngựa, chứ không thành chim cá hay người, v.v…được. Tất cả những gì tôi có thể làm trong trường hợp ấy là làm trâu hay ngựa tốt lành ngoan ngoãn, để mong kiếp sau làm hiền nhân và từ đó trong những kiếp sau nữa, tiến tới giải thoát. Kết luận, là dù sao cái viễn tượng của cõi luân hồi trầm luân không phải là tuyệt đối khép kín trong vòng luẩn quẩn, không lối thoát, trái lại bao giờ cũng hé mở một tia hy vọng giải thoát. Trong khi đó, con người của Sartre “bị kết án tự do” mà cái tự do ấy không đem tới một con đường giải thoát nào cả. Con người của Sartre không tự sinh tự tạo, nó tự do dự phóng tổ chức và chọn lựa cuộc hiện sinh của mình, nhưng đó là một cuộc hiện sinh vô mục đích, vô cứu cánh, bởi thế cho nên nó mới phi lý và đáng “buồn nôn”.
III. NHỮNG CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
Tất cả mọi học thuyết Ấn Độ có thể nói đều bắt nguồn từ “tín điều” căn bản luân hồi nghiệp báo, và tuy các học thuyết đó có mâu thuẫn chống đối nhau, kết cục tất cả cùng hướng về một cứu cánh là giải thoát. Các học thuyết đó có thể ví với những dòng sông bắt nguồn trên cùng một đỉnh núi, chúng đi theo những thung lũng và khe suối khác nhau để trở thành những con sông khác biệt, nhưng kết cục chúng đều chảy về một đại dương mênh mông.
Con người, theo quan niệm Ấn Độ thì ràng buộc bởi Karman và bị nô lệ giam hãm trong vòng luân hồi, nhưng sức mạnh của Karman không phải là vô địch, và vòng luân hồi không phải là tuyệt đối khép kín hay nói cho đúng hơn, nó chỉ là khép kín nếu người ta không nổ lực để tìm đường giải thoát, mà đường giải thoát này chính là vấn đề chính yếu mà các hệ thống triết học và tôn giáo Ấn Độ lo lắng cổ võ.
Dĩ nhiên là có nhiều học thuyết thì cũng có nhiều đường giải thoát khác nhau. Ơû đây chúng ta chỉ chọn ba con đường tiêu biểu nhất là:
1. Karma Yoga: con đường hành động
Xưa nay nhiều người thường lầm tưởng, và có khi chính người Ấn Độ cũng lầm tưởng như vậy, cho rằng vì hành động sinh ra quả, quả sinh ra nghiệp kiếp sau, nên chỉ bằng chủ trương vô vi, nghĩa là không hành động gì nữa, và như thế là có thể tiến tới giải thoát một cách dễ dàng chắc chắn. Tuy nhiên, hành động cũng có nhiều thứ: có những hành động xấu, hành động tốt sinh quả tốt, và cũng có những hành động không tốt cũng không xấu, và sau cùng những hành động “vô cầu”, nghĩa là những hành động không do lòng dục vọng, không do lòng vị kỉ, nhưng do tinh thần trách nhiệm và do một lòng siêu thoát:
“Ai tìm thấy niềm vui trong ngã, thỏa mãn vì ngã và chỉ hài lòng vì ngã, người ấy thật ra không còn gì để thực hiện tại thế này”.
Hành động cũng như vô vi (không hành động) không quan hệ gì nữa đối với họ ở trần thế,họ không còn lệ thuộc vào bất cứ một hữu thể trần gian nào.
Bởi thế, hãy trở nên siêu thoát chu toàn hành động mà nghĩa vụ đồi buộc, bởi vì, chính nhờ hành động với (lòng) siêu thoát mà còn người đạt tới (đấng) tối cao (bhagavadgita, III, 17-19)
Có thể nói là hành động vô cầu là “nói mà không biết mình nói, ăn mà không biết mình ăn, đi mà không biết mình đi, tóm lại hành động mà như không hành động”. Nói khác đi, hành động giống như thiên nhiên: cây cho hoa lá không biết rằng chúng cho hoa lá, và cũng không sinh sản hoa lá cho mình; dòng sông chuyển nước về biển cả mà không biết mình chuyển nước.
Đạt tới một tâm trạng như thế, người ta sẽ không còn biết phân biệt thành công hay thất bại, tốt hay xấu, bạn hay thù, người quen hay người lạ. Tóm lại,sẽ trở thành vô tư hoàn toàn, vô vị lợi và hoàn toàn siêu thoát (cf. Bhagavadgita.VI. 8-9). Có lẽ có người sẽ nghĩ: hành động như thế thà đừng hành động làm chi, bởi lẽ hành động mà thiếu sự phán đoán, thiếu ý thức, nhiều khi chỉ sinh hại nhiều hơn là sinh lợi cho xã hội.
Thật ra, như chúng ta đã thấy, lý tưởng cao nhất của Ấn Độ vẫn là đạt tới tuyệt đỉnh của con đường trí tuệ tức là con đường chiêm niệm, con đường đòi hỏi vô vi. Tuy nhiên, đối với phần đông nhân loại, con đường hành động Karma yoga, vẫn là cần thiết và phải đi qua.
Trên hết, là vì không phải ai cũng có thể đạt tới độ cao của trí huệ (Prajna), không phải ai cũng có thể sống cuộc đời chiêm niệm. Sau nữa, trong thực tế “không ai có thể ở trong tình trạng bất động, dù chỉ trong một lúc, bởi vì người ta bị bó buộc,dù trái ý đi nữa, tham dự vào hoạt động, tại vì bản tính tự nhiên của mình” Bhragavadgita. III, 5).
Con người cần phải hành động, bó buộc phải hành động vì bản tính của nó bắt buộc như thế, và bởi vì mục đích của cuộc sống nó là phụng sự thế giới (cf. Bhagavadgita. III, 20). Nhưng, nếu nó muốn được giải thoát, nó phải hoạt động với một tinh thần siêu thoát.
2. Bhakti Yoga: Con đường tin tưởng, sùng ái
Phải hành động với tinh thần siêu thoát, nhưng đó mới chỉ là lý thuyết. Trong thực tế, người ta tự hỏi trên trần gian này có ai có thể thực hiện được lý tưởng trên? Ai có thể nói mà như không nói, ăn mà như không ăn, làm mà như không làm…?. Các thánh hiền Ấn Độ sẽ trả lời cho chúng ta là lý tưởng đó có thể thực hiện được, và chính các ngài đã thực hiện nhờ con đường Bhakti Yoga, con đường tin tưởng và sùng ái.
Con đường này tuy khác con đường trên nhưng thực sự nó bổ túc, hay nói khác đi, nó là sự hoàn thành của con đường trên. Thực vậy, không có con đường này là như đoạn chót của con đường hành động, con đường hành động sẽ khó có thể tồn tại.
Sở dĩ thế là vì con người không phải là một cây cỏ, cũng không phải là một con vật vô ý thức, nó là một tinh thần nhập thể vừa vị kỷ vừa vị tha. Và trong nhiều trường hợp, có lẽ nó nhiều vị kỷ hơn vị tha, nghĩa là nó thường nghĩ tới mình hơn là nghĩ tới tha nhân. Con người thường hành động cho mình. Nhưng theo quan niệm của các hiền triết Ấn Độ, hành động vị kỷ, nghĩa là hành động cho mình tức là mong muốn một hiệu quả, và như thế là chuốc lấy cho mình cái nghiệp. Muốn tránh cái nghiệp đó, phải hành động vô cầu, và cái phương pháp giúp người ta có thể hành động vô cầu chính là luôn hướng tư tưởng về Đấng Chí Tôn. Đó là con đường tư tưởng sùng ái.
Con người luôn hướng tâm hồn về Đấng Chí Tôn là con người phải tin tưởng, say sưa trong sự kết hợp với Chúa mình, để đến nỗi có thể nói họ hoàn toàn sống trong Chúa: tất cả lời nói và hành động trong Chúa. Hay nói ngược lại, Chúa suy tư, nói và làm với họ và trong họ: bởi vì có thể nói họ và Chúa chỉ là một, để đến nỗi họ có thể nói:
“không phải tôi sống,
Chúa sống trong tôi
Chúa sống trong tôi
kết hợp tâm đồng.” (cf. Ga2,20).
Nói tóm lại, con đường Bhakti Yoga chính là con đường tình yêu. Con đường này làm cho chúng ta nghĩ tới “con đường thơ ấu thiêng liêng”của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng. Thực vậy, thiếu nữ thành Lisieux có thể nói cũng đã chủ trương con đường Bhakti Yoga, con đường yêu mến và phó thác, cậy trông hoàn toàn vào chúa, không mưu cầu tư lợi hay phúc riêng cho mình.
Con đường Bhakti sẽ đặc biệt được các giáo phái cổ võ. Bởi vì họ thấy rằng đối với quần chúng, thực hành những con đường khác như hiền định (Dhyânahay samadhi) rất khó, trái lại, con đường yêu mến phó thác thật là dễ dàng.
Trong số những đồ đệ của Ramanuja (1071-1137) còn có những người chủ trương những con đường Bhakti khác. Chẳng hạn phái Vadakalai, tức là phái thủ cựu ở miền bắc thì chủ trương Bhakti kiểu con khỉ, nghĩa là bắt chước con khỉ con, mỗi khi gặp nguy hiểm nó chạy tới bám chặt lấy cổ mẹ: các tín đồ cũng vậy, phải luôn bám riết vào Chúa, và như thế sẽ chắc chắn sẽ được giải thoát. Phái Tenkalai ở phương nam còn đi xa hơn nữa, họ cho rằng bắt chước con mèo con, nó không cằn phải chạy tới bám lấy cổ mẹ, nhưng chính mẹ nó, mỗi khi thấy nguy hiểm thì dùng miệng tha con đi nơi khác. Cũng thế, các tín đồ cứ phó thác để mặc cho Chúa lo liệu gìn giữ mình.
Sau này, Vallabha (1479-1531) cũng chủ trương con đường Bhakti nhưng ông muốn nhấn mạnh hơn về khía cạnh yêu đương, kết hợp hơn về khía cạnh phó thác. Ông đem ra tỉ dụ rất là cụ thể về quá trình phát triển tình yêu nơi một thiếu nữ, để đem so sánh áp dụng vào tình yêu giữa tín đồ và Chúa.
Khi một thiếu nữ yêu một chàng trai, nàng lấy làm sung sướng được chiêm ngưỡng chàng (haksârâga); nàng mơ nàng sống trong những kỷ niệm của người yêu (manabsanga); mất ngủ vì tưởng nhớ tới chàng (jâgara); nàng héo hắt và trở nên gày còm, ốm yếu (tanutâ)…, nàng mất trí (unmâda); ngất đi (murchana); nàng chết (marana).
Một tâm hồn say mê sắc đẹp của thần Visnu cũng sẽ thao thức héo hắt, ngây ngất và chết như vậy.
Đó phải chăng là cái “chết vì yêu”, cái “chết vì không được chết” (je meure de ne point mourir) của các nhà huyền bí Công giáo như thánh Gioan Thánh Gía chẳng hạn.
3. Jnâna Yoga: Con đường trí tuệ
Ngoài hai con đường trên, con đường hành động vô cầu và con đường tin tưởng sùng ái, các thánh hiền Ấn Độ còn có một con đường bí nhiệm nữa là con đường trí huệ.
Con đường trí huệ là con đường đưa tới giác ngộ, tới giải thoát.
Con đường trí huệ là con đường dẫn tới giác ngộ, tới giải thoát hoàn toàn. Dĩ nhiên vẫn con tuỳ theo quan niệm của một hệ thống, hay của mỗi tác giả. Nhưng một cách chung nghĩa của giác ngộ (Bodhi) là đạt tới chân lý toàn diện, chân lý cuối cùng, tức là sự đồng hoá giữa cái ta và cái Ta vô biên của vũ trụ, sự đồng hoá giữa cái ta và Âtman hay Tattvamasi. Aham Bhma asmi. Hay theo Phật giáo đạt tới giác ngộ là thành chân như, hay là đạt tới trạng thái vô cảm vô thực, tịch tĩnh trong chân không tuyệt đối.
Tóm lại, nếu con đường tin tưởng sùng ái đưa tâm hồn tới sự kết hợp mật thiết, tới sự trưởng thành một với Thượng Đế hay với Thần Linh, con đường trí huệ đưa tâm hồn tới sự đồng hoá hoàn toàn với cái nguyên lý cuối cùng hay là tuyệt đối mà không ngôn ngữ nào có thể diễn tả nổi, không suy tư nào có thể đạt tới ,nhưng chỉ có trực quan của nhà hiền triết mới thực hiện mà thôi.
https://catechesis.net/vu-tru-quan-va-nhan-sinh-quan-cua-an-do-giao-3/ (cập nhật ngày 11.5.2023)
----------
---Còn tiếp---