TÌM HIỂU VÀ NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ - Phần 6/15
Lm. Tôma Thiện Trần Minh Cẩm, OP.
----------
PHẦN I: TRIẾT HỌC BÀ LA MÔN
CHƯƠNG II: CÁC DARSANA
VI. HỆ THỐNG VIDÂNTA
4. Các nhà bình luận.
B. RÂMÂNUJA (1059-1137)
Sau Sankara thì Râmânuja phải được coi là nhân vật quan trọng thứ nhì trong trường phái Vedânta. Râmânuja là một Bàlamôn sống nhiều năm ở Kanci và Sriâangam, ông là một tín đồ Visnu và vì thế chống lại Sankara. Oâng đã viết một tập bình luận Brahmansuâtra dưới nhan đề là: Sriâbhâsya. Tập bình luận Bhagavadgiâtâ với nhan đề Giâtâbhâsya, tập Vedârtha gamgraha và Vedântasâra tóm lược cuốn Sriâbhâsya và nhiều tác phẩm khác nữa.
Học thuyết của Râmânuja: tư tưởng chính yếu của Râmânuja là nhất tính, không ở trong một nguyên lý độc nhất, nhưng ở trong những phần tách biết của một nguyên lý. Hữu thể tự phân làm ba: Vastu (bản thể Substantialité), bhâva, svabhâva (yếu tính essence) và Sat (hiện hữu, existence). Nói cách khác, Brahman có nhiều thể (Prakâra modes), hiện thể: Brahman là Thức (Cit). Thức đây bao hàm tất cả các hồn cá biệt, Brahman là Acit, vô thức, bao hàm thế giới vô tâm linh. Cit và Acit đều thực hữu như Brahman, và sự khác biệt giữa chúng cũng thật tự nhiên và vĩnh cửu.
Học thuyết của Râmânuja được gọi là Vísisâdvaita (nhất nguyên, phân biệt Non dualisme spécifié), hay nhất nguyên dị hoá (monisme différencié). Chìa khoá của học thuiuyết này khái niệm về thể (Prâkara mode), khái niệm này bao hàm nhiều khía cạnh.
w Khía cạnh luân lý: Vísesana, đặc tính của dravia bản thể.
w Một khía cạnh thực thể: Upâdya – hiệu quả của Upâdâna - nguyên nhân.
w Một khía cạnh đạo đức: Sésa, sự tuỳ thuộc của tâm linh hữu vào tâm linh vô biên là chủ (Sésin).
w Sau hết còn có “Thể” thân xác: thân xác được coi như là thể của linh hồn, cũng như thế giới là thân xác của Chúa, (Lacombe): hay là dụng cụ để Ngài biểu diễn trò chơi (Liâlâ). Cái thân xác vĩnh cửu này vô thức và có hai trạng thái: trạng thái gọi là Suâksma hay là Tamas tinh vi, đó là trạng thái mà danh sắc không được minh bạch; và trạng thái gọi là Lâsthâla, thô sơ, trong đó nhất thể trở thành đa tạp. Nói cách khác sự xuất hiện của vũ trụ chỉ là một sự biến thể (Pâriânâma) từ trạng thái tinh vi sang trạng thái thô sơ, một sự biến thể mà thực sự không dính líu gì đến bản chất của Brahman. Nói cách khác, Brahman là nhất thể, nhưng là một nhất thể có khả năng tự phân hoá… Thế giới vũ trụ này là biến thể của Brahman, nó đồng nhất nhưng đồng thời phân biệt với Brahman. Đó là một thực tại chứ không là một ảo ảnh. Khác với Phật giáo Sankara, Râmânuja chủ trương một thuyết thực tế, nghĩa là coi vạn sự là có thực. Theo Râmânuja, người ta không thể vì tính chất vô thường của thế giới vũ trụmà cho rằng nó vô thực. Sự hiện hữu thực và sự phân biệt của thế giới khách quan đối với Brahman cũng giống như thân ta đối với Aâtman: thế giới khách quan chính là thân của Brahman. Không có Brahman thì không có vạn sự, và vạn sự sóng động nhờ Brahman. Râmânuja phản đối việc so sánh thế giới khách quan với những hình ảnh của giấc mơ, bởi vì theo Râmânuja, chính những hình ảnh trong giấc mơ cũng chỉ có thể có nhờ những thực tại có thực. Râmânuja chống lại thuyết Mâyâ của Sankara nhưng vẫn dùng danh từ đó. Đối với Râmânuja, Mâyâ là quyền lực kỳ diệu của Brahman, nó chính là Prakrti (cf. Svet. Up. IV, 10 Giâtâbhâsya VII,14).
Prakrti là thiên nhiên thủ tiên từ đó khai triển vạn sự, nó bao quanh các linh hồn và đồng thời nó cung ứng cho chúng các cơ quan cũng như khách thể để cảm xúc, nó chính là nền tảng của Guâna: Sattva, Rajas và Tamas; ba Guna được coi như là ba đặc tính khác biệt nhưng không thể tách biệt với Prakrti. Ngoài cái Prakrti còn có Nitia vibhuâti, một thứ vật chất tâm linh để tạo nên thân các thần linh và các người được giải thoát.
Tri thức (Jnâna) là một bản thể thuộc tâm linh, nó không thể được coi như là một chủ thể biệt lập, bởi vì luôn lệ thuộc vào một chủ thể (linh hồn hay Thượng Đế), nó là một thứ ánh sáng trong linh hồn, ánh sáng đó bị lu mờ nhiều ít vì cảnh huống Sâmsâra. Nhưng trong tiến trình giải thoát, nó dần dần được thuần khiết hơn, và nơi những người đã được giải thoát thì nó trở thành thuần sáng.
Phương tiện chính yếu để giải thoát là tri thức, những hành động tốt có tác dụng là tẩy rửa linh hồn, nhưng nếu chỉ có những hành động tốt mà thôi thì không đủ để giải thoát. Tuy nhiên khác với Sankara, Râmânuja không hoàn toàn loại bỏ các hành động tốt, nhất là những hành động tôn giáo.
Tri thức giải thoát ở đây hệ tại trước hết ở chổ nhận thức rằng linh hồn khác biệt với Prakrti và tất cả những gì bởi nó mà ra. Tri thức này có thể đạt được nhờ tính niệm. Tuy nhiên đó cũng chỉ là giải thoát khỏi những ràng buộc với vật chất và trạng thái Sâmsâra mà thôi. Trình độ giải thoát cao siêu nhất chỉ có thể thực hiện nhờ Bhakti yoga bằng con đường sùng ái đưa tới sự hoà tan vào trong bản tnh của Thượng Đế, làm cho người tín đồ chỉ còn là một Sésa, một thứ tồn danh, nghĩa là chỉ còn lại trên danh nghĩa, nhưng thự sự hoàn toàn lệ thuộc vào Thượng Đế, đợi đến khi chết sẽ hoàn toàn thể nhập vào Thượng Đế. Trên con đường sùng ái, còn con đường Prapatti, đó là sự tín thác hoàn toàn vào Thượng Đế, đó là con đường không còn đòi hỏi phải học hàng hay là hiểu biết Thánh kinh, trái lại, chỉ cần phó mặc cho Chúa định liệu tất cả. Về con đường Parpatti này, các đồ đệ của Râmânuja về sau còn chia làm hai: Nhóm adakalai, tức là nhóm bảo thủ miền bắc chủ trương rằng phải phó mặc hoàn toàn vào Chúa giống như con khỉ con, nghĩa là sự phó thác ở đây không loại bỏ cố gắng riêng của mình cộng tác với ân sủng của Thượng Đế, bởi vì cũng giống như con khỉ con, mỗi khi gặp nguy hiểm thì chạy đến ôm lấy mẹ. Trong khi đó nhóm Utekalai ở miền nam chủ trương phó mặc Chúa kiểu con mèo con, nghĩa là không cần cộng tác chi cả, cũng như con mèo con được mẹ nó cắn cổ tha đi mỗi khi gặp nguy hiểm mà không cần có một động tác nào cả.
C. MADHVA (1199-1278)
Một nhân vật khác cùng giáo phái (Visïnu) và cùng thuộc hệ thống Vedânta như Râmânuja, nhưng không cùng quan điểm với ông này, là MADHA.Madhva sinh trưởng ở miền nam Ấn độ, trong xứ Udipi. Trước kia Madhva theo phái Sakara, nhưng sau ly khai và chống đối lại phái đó. Người ta gán cho Madhva 37 tác phẩm mà nội dung là chú giải Upanisïa Giâtâ, Mahâbhârata, Bhâgavata Purânïa, và một số tác phẩm khác, đó là những tập tiểu luận triết học.
Madhva chủ trương một thuyết nhị nguyên, Dvaita, dôi khi người ta gọi là savísesïbhedam, “nhị biệt hóa” (dualisme qualifié).
Thực ra, Madhva chủ trương có ba nguyên lý hoàn toàn biệt lập trong đó nguyên lý thứ nhất có ưu thế trên hai nguyên lý sau: đó là Brahman, đồng hóa với Visïnïu; hai nguyên lý sau là Cit hay là jiva, tức là nguyên lý tâm linh, và jadïa hay là acit, nguyên lý phi tâm linh.
Savísesïa (:nirvísesïa), và Aruâpa, vô hình, vô sắc, không dấu biệt phân, Brahman, theo Madhva, có 8 cơ năng chính yếu: ban hữu thể (sattâ) cho các jiva mà chỉ ngài mới biết bản tính thực (svaruâpa) của chúng; Brahman là satyasamïakalpa “chân niệm”: ngài hiện thân dưới hình thái và danh hiệu Visïnïu, hay là Hari. Các jiva hiện hữu tách biệt nhau, chúng vô ming, và do đó khổ đau. Các jiva thường thì gọi là Bhinnâmïsùa, là những thành phần của Brahman, nhưng vẫn khác biệt Brahman; một số jiva được đặc ân. Thí dụ như các avatâra của Visïnïu, thì gọi là abhinnâmïsùa hay là svaruâapâmïsùa, đồng bản tính và đồng quyền năng với Brahman vô biên vô lượng không lường đối với các jiva thường, cũng như ánh nắng đối với con đom đóm. Sau hết acit là do Prakrïti mà ra là một ngyuên lý vật chất cấu tạo vũ trụ hữu hình, đời đời nó vốn tách biệt Brahman, bởi vì Brahman là nguyên nhân hữu hiệu chứ không phải là nguyên nhân vật chất của thế giới.
Brahman vô hình sắc, khác biệt các jiva và acit, nhưng đồng thời lại thấu trong vạn sự, bởi vậy nên công thức Tat tvam asi phải được hiểu là: tuy Brahman, jiva, và acit là ba thực thể, nhưng chỉ có Brahman là tự tại, còn tất cả đều lệ thuộc ý chí của Brahman: Brahman luôn luôn hiện diện trong vũ trụ cũng như trong các jiva để hướng dẫn điều động từ bên trong chúng. Chính Ngài tác động trong Prakrïti để nó quảng diễn thành vũ trụ vạn vật và cũng chính ngài thâu hồi chúng lại trong mình sau mỗi chu kỳ vũ trụ.
Brahman, như trên đã nói, hiện thể dưới danh hiệu Visïnïu. Tất cả các danh hiệu tương đương với Brahman chẳng qua cũng chỉ là những danh hiệu khác nhau của một Visïnïu.
Về vấn đề giải thoát, Madhva quan niệm rằng hệ tại ở chỗ nhận thức được chân tính của Ngã, nhưng sự nhận thức này tùy thuộc ân huệ của Visïnïu. Những phương thế nhân loại chỉ có thể giúp đạt được một vài đức tính cao quí, nhất là giúp hiễu biết và tìm đến nương náu nơi Chúa (Visïnïu), giúp đạt được lòng sùng ái (bhakti) nơi Ngài, hiểu rõ được 5 sự khác biệt quan trọng: khác biệt giữa Brahman và jiva, giữa các jiva với nhau, giữa jiva và acit, giữa Brahman và acit giữa acit này với acid khác. Nhưng sự giải thoát thực sự là do sự tiền định của Chúa Ngài dịnh vho ai được giải thoát thì sẽ ban ơn cho họ để đạt được những đức tính và sự hiểu biết cần thiết để được giải thoát; trái lại, ngài định cho ai bị trầm luân trong cõi sâmïâra, thì người đó sẽ mãi mãi ở trong vòng vô định.
Nhưng những jiva được tiền định cho giải thoát cũng phải qua nhiều giai đoạn tinh luyện theo một tiến trình mà Madhva trình bày một cách tỉ mỉ; ngoài ra, họ còn phải thực hiện được nhũng hành vi tốt, nhờ đó mới đạt được lòng sùng ái, Bhakti, cần thiết cho ơn giải thoát. Lòng sùng ái này được thể hiện qua sự tĩnh niệm va thấu nhập huyền bí vào trong Visïnïu , nhờ đó mà jiva được siêu thoát khỏi mọi ràng buộc trần thế. Sau khi chết, các jiva siêu thoát này thường thường phải đến cùng Brahman để học nơi Ngài cách thức đi tới thế giới của Visïnïu lúc vũ trụ bị thâu nhập vào Brahman . các jiva được giải thoát sẽ có một thân thể thuần sáng (sattva) và tuy hoàn toàn thấu nhập vào trong Brahman nhưng vẫn khác biệt, và được hưởng mọi thứ vuitrong các cung điện, các hoa viên, với tất cả mọi cuộc chơi, với những tiếng ca tiếng đàn. Cũng nên biết rằng trong số các vị được giải thoát, trước hết phải kể đến Laksmiâ, Visïnïu phu nhân, đời đời vẫn được giải thoát và là nhân cách hoá của quyền năng của Chúa và làm chủ Prakrïti.
Xem như thế, học thuyết của Madhva có phấn chú trọng đến khía cạnh tôn giáo hơn là triết lý, và về phương diện này, Madhva chỉ trình bày được một quan điểm bình thường, có nhiều mâu thuẫn. Theo Glasenapp đây là một học thuyết chịu ảnh hưởng nhiều hệ phái Sâmïkhuy Yoga hữ thần cộng với một vài yếu tố tư tưởng của các người thuộc phái Nyâya Vaisùesika sau này.
D. NIMEBÂRKA ( 1162)
Gần giống với lập trường của Râmânuja, Nimbârka, một tín đồ của Krïsïna, ở miền Bá¨c, chủ trương thuyết phân biệt bất phân, Bhedâbheda, cũng gọi là “hai mà không hai”, Dvaitâdvaita, đó là một thứ biện chứng dung0hòa duy nhất tính của tuyệt đối với thực tại đa tạp của thế giới vũ trụ. cũng Râmânuja, Nimbârka chủ trương có ba nguyên lý: Brahman, Cit, và Acit. Giữa ba thực thể này có sự phân biệt mà không phân biệt, cũng giống như các làn sóng đối với đại dương, hay là như các tia sáng mặt trời đối với mặt trời (Brahma suâtra 2,1,13): làn sóng khác biệt d0ại dương nhưng thực ra chỉ có thể hiện hữu trong đại dương là nền tảng hiện hữu của nó; tia sáng đối với mặt trời cũng thế. Chúa Isùvara, với tính cách là hữu thể tối cao, siêu việt trên tất cả vạn sự hữu hạn và bao nhiếp chúng, và hnững hữu thể này hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài, cũng như các tia sáng đối với lửa (of.Brïh.up.2,1,10).
Cit có yếu tính (Svaruâpa) là tri thức (jnana). Về Acit thì có ba loại, cả ba đều vĩnh tồn: Aprakrta, cái không do prakrïti mà ra, thì như áng –sáng của Chúa; prakrïta, tất cả những gì do prakrïti mà ra. (of.24 Tattva của phái Sậm khuy); sau hết là Kâla, thời gian.
Brahman, theo Nimbâeka, đồng hóa với Isùvara, Chúa. Ngài là nguyên nhân hiện hữu và nguyên nhân vật chất của thế giới. Ngài hiện thân dưới hình thể và danh hiệu Krïsïna. Thế giới tâm linh và thế giới phi tâm linh (Cit và Acit) là do sự biến đổi (parinïâma) của Brahman mà ra. Sự biến đổi đi từ trạng thái tinh vi đến trạng thái thô sơ, với một hậu quả là phóng ra (viksïâma) một năng lực (sùakti), và năng lực này tạo ra một cặp biện chứng: Bhoktrï, tức là cit, chủ thể thụ hưởng và Bhogya, tức là acit, khách thể hay đối tượng của sự thụ hưởng.
Các Jiva (thuộc về acit) tuy là hiệu quả của Brahman, nhưng vì không phải đã được tạo ra, mà do chính sự biến đổi, chuyển hóa của Brahman mà sinh ra, cho nên cũng hằng hữu như Brahman. Sự khổ đau trong cõi Samïsara là do không hiểu biết thực tại phân biệt vô phân biệt hay là hai mà không hai. Bởi đó, sự giải thoát (mukti) sẽ thực hiện được khi nào jiva ý thức được sự phân biệt vô phân biệt giữa nó với Brahman, tuy nhiên sự giải thoát ấy còn cần đến kỹ thuật huyền bí, đó là Prapatti, lòng tín thác đưa đến sự sùng ái (Bhakti).
Trong khi Madhva đồng hóa Brahman với Visïnïa, thì Nimbârka đồng hoá với Krïrïna, mà theo ông, đó không phải là avatâra của Isùvara, nhưng đồng bản tính với Ngài. Bên cạnh Krïrïna thì có Râdhâ, phu nhân của Ngài.
E. VALLABHA (1479-1531)
Sau Râmânuja, Madhva và Nimbârka thì đến Vaallabha, một tín đồ Krïsïnïa, sinh trưởng ở Bénarès và sinh sống ở gần Mathurâ. Vallabha đã trước tác nhiều tập bình giải Brahma Suâtra và Bhâgavata Purânïa, là hai bộ sách mà ông cho là cao quí nhất, sau đó ông còn biên soạn một cuốn sách lớn nhan đề là Tattvadiâpanibandha, và một số tác phẩm nhỏ khác.
Có truyền thống cho rằng học thuyết của Vallabha chỉ là sự nối tiếp tư tưởng của một bậc thầy đã sống ở thế kỷ XIII, đó là Visïnïusvâmin. Nhưng chưa ai tìm được minh chứng cụ thể, đàng khác, danh hiệu Visïnïusvâmin (người nhận Visïnïu làm Chúa) là tên nhiều người, cho nên khó có thể xác định được truyền thống trên đây.
Học thuyết Vedânta qua sự trình bày của Vallabha được gọi là Suddhâvaitamata, thuyết phi nhị nguyên thuần tuý, theo đó, Jiva và prapanca (thế giới) đồng nhất với Brahman. Brahman là tuyệt đối, là tất cả; vừa vô biên và siêu việt trên tất cả, nhưng đồng thời cũng chính là jiva và prapanca, bởi vì thế giới và các tâm linh cá biệt thực ra chỉ là những phần nhỏ của Brahman, và sở dĩ có sự phân biệt giữa Brahman với các tâm linh cá biệt và thế giới, đó là do trò chơi (lilârtham) sáng tạo giữa các Gunïa của Brahman là sat, hiện hữu, cit, ý thức, tư tưởng, và ânanda hoan lạc. Tất cả vạn sự chỉ là do chính Brahman chuyển hóa mà ra, riêng các jiva còn được chia sẻ cit và ânanda của Brahman, nhưng không được đầy đủ và đồng đều, và đó là căn nguyên của vô minh và đau khổ.
Vallabha lên án thuyết Mâyâ của Sankara và chủ trương một thuyết biến hóa theo kiểu Sâmïkhya. Theo Vallabha, Brahman, hiện hữu dưới danh sắc Krïsïnïa, là Ens realissimum, hiện hữu tối thực hàm chứa trong chính mình thực tại đa tạp của vạn sự như là sự phân hóa nội tại, chính vì vậy mà người ta có thể quan niệm hiện hữu Brahman dưới ba hình thái: hoặc là Krïsïnïa, Chúa siêu việt, ngự trị trên phi tưởng xứ giữa các nữ mục tử, vui thực hiện những cuộc chơi thiên giới; hợac hiện hữu như là Aksïara, nguyên lý vô ngã của vũ trụ, từ đó mà phát xuất ra Prakrïti vá các linh hồn cá biệt; sau hết, hiện hữu như là Antaryâmin, vị hướng dẫn, điều khiển các linh hồn cá biệt và vạn sự, và với tư cách này, Ngài thấu nhập vào bên trong vạn sự.
Các linh hồn cá biệt làlà những phân tử của Brahman, ý thức và năng động, được phát hiện do sự giảm thiểu ânanda của Brahman. Mỗi linh hồn cá biệt như vậy không phải là một hậu quả của một tưởng ảo hóa như trong thuyết Advaita, nhựng thực là một phần của bản thể Brahman, và do đó phải hiểu công thức Tat Tvam asi hay là Ahamï Brahmasmi theo nghĩa đen. Mà vì mỗi linh hồn cá biệt là một phân tử của Brahman cho nên Vallabha cũng chủ trương một thuyết tất định độc đáo, theo đó, mỗi linh hồn cá biệt được xếp loại tuỳ theo tỷ lệ ânanda của nó có những linh hồn thuần sáng, có những linh hồn được giải thoát, nhưng cũng có linh hồn bị trầm luân trong tình trạng luân hồi dài hạn, ngắn hạn hay mãi mãi.
Cũng như các trường phái Vedânta khác, Vallabha chủ trương hai con đường giải thoát: jnâna và bhakti. Con đường tri thức là con đường đưa đến dự nhận thức đồng nhất tính giữa âtman và Brahman, nhờ những sadhana, những thực hiện tâm linh đạo đức. Những jnâna là con đường chỉ đưa tới Chúa với tính cách là Aksïara, nguyên lý vô ngã của vũ trụ con đường cao hơn là con đường đặc biệt của truyền thống Vedânta, là bhakti, con đường đưa ta đến trình độ siêu việt trên các phạm trù thiện ác, và cho ta đạt đến thực tại cao vời sâu thẳm của Chúa. Nhưng ở đây Vallabhacòn phân biệt các loại bhaktas khác nhau: có những Bhaktas phát triển bhakti nhờ những cố gắng của mình, theo những luật lệ phương pháp họ đã học được; có những bhaktas khác hoàn toàn dựa vào ân sủng (pusïti) cứu độ của Chúa. Vallabha đề cao con đường Bhakti nhờ ân sủng này, vì nó không đòi hỏi người tín đồ phải từ bỏ thế gian, nhưng họ vẫn có thể sống và hành động trong trần thế, chỉ cần dâng hiến tất cả mọi hoạt động, mọi tư tưởng, mọi tài sản cho Krïsïnïa.
Hạnh phúc cao cả dành cho các bhaktas được tham dự vào mọi cuộc chơi của Krïsïnïa trong thiên đường cao vời nhất là Golaka, “thế giới bò cái”. Trong khi các Bhakatas của bậc thứ chỉ được hưởng hạnh phúc trong những thiên đường thấp hơn, hay là hòn toàn tan hòa trong bản tính của Chúa.
F. CAITANYA (1485-1533)
Nhân vật tiêu biểu cuối cùng được nhắc đến trong truyền thống Vedânta là Krïsïnïa Caitanya Deva sinh trưởng ở Navadviâpa. Ngay từ buổi thiếu thời, Caitanya đã nổi tiếng là “hay chữ”, nhưng ông lại sớm đi vào đời khổ tu và đã đánh thức lòng sùng kính Krïsïnïa trong cả vùng Bengale, nhờ công đó, ông được các người đồng đạo coi như là hiện tân của Krïsïnïa, và người ta gọi ông là Gaurânga; vị thần có thân xanh thẫm.
Caitanya không trực tiếp để lại tư tưởng của mình bằng sách vở. Công việc này đã được các đồ đệ của ông thực hiện. Trong số những đồ đệ này có Ruâpa, Sanâtana và cháu ruột Caitanya là jiva, là người đã viết cuốn Satïsandarbha, được coi là tập giáo lý quan trọng nhất. Học thuyết Caitanya đồng thời muốn trung thành với tryuền thống Vadânta và cũng muốn chấp nhận thực tế, nghĩa là chủ trương đồng thời sự khác biệt giữa Brahman và thế giới vũ trụ vạn vật. Để bảo vệ học thuyết khỏi sự luận bác của các đối thủ, phái Caitanya kêu gọi đến sự khiêm tốn của người huyền bí và tuyên bố rằng đó là Acintya điều không thể suy tưởng được: đồng nhất tính và sự khác biệt giữa Chúa và các linh hồn, cũng như đồng tính nhất giữa Ngài với vạn sự, và giữa vạn sự với nhau là điều mà con người không thể tưởng tượng được.. nhưng điều đó dựa trên một bình diện mà con người không thể nào đạt tới.
Theo phá Caitanya, Brahman vừa siêu việt vừa nội tại. Người ta có quan niệm Brahman là nền tảng hiện hữu của vạn sự (nguyên lý vô ngã); hoặc là paramâtman, tổng ngã, điều khiển vạn sự; hay là Bhagavat Đấng Chí Tôn, Krïsïnïa, chủ tể mọi thế giới, có thân toàn sáng. Brahman tác động bằng SÙakti của Ngài. Nhưng trước hết, và quan trọng hơn cả phải kể đến Cit SÙakti. Cit SÙakti này có ba Gunïa: Sat, hiện hữu; Cit, ý thức; và Aânanda, hoan lạc. Sau đó thì đến Samïdhiniâ SÙakti là năng lực làm cho Ngài và tất cả những gì Ngài muốn hiện hữu hiện hữu; Samïvit Sùkti toàn tri, làm cho Ngài biết mọi sự là làm cho các tạo vật có tri thức có thể có tri thức; Hlâdiniâ SÙakti làm cho Ngài được hạnh phúc và cho các linh hồn cá biệt được hạnh phúc. Ngoài ra còn có Jiva Sakti là năng lực làm cho có sự cá biệt giữa các linh hồn và Chúa, cũng như giữa chúng với nhau, chính năng lực này đồng thời làm cho các linh hồn cá biệt một phần quen nguồn gốc thần linh của mình, một phần cố gắng tìm về nguồn gốc của mình là Chúa.
Tương quan giữa cá linh hồn cá biệt với Chúa được trình bàybằng một hình ảnh cổ truyền quen thuộc: các linh hồn đối với Chúa cũng giống như những tia sáng đối với ánh mặt trời. Sự giải thoát hệ tại ở chỗ linh hồn phải cố gắng diệt trừ ý thức về hiện hữu cá biệt của mình để hoàn toàn sống trong tương quan với Chúa, và hoàn toàn phó thác nơi Ngài. Các việc thiện và tri thức giúp đạt được điều đó, nhưng con người chỉ đạt tới thần linh nhời tình yêu (proma).
Gương mẫu của tình yêu phó thác nơi Chúa là Râdhâ, nàng đã say mê Chúa đến nỗi quên cả chồng để chỉ còn biết sống với Ngài. Về hạnh phúc cao cả của người được giải thoát, nhóm Caitanya cũng tin như Vallabha, họ sẽ được tham dự vào cuộc chơi của Krïsïnïa.
https://catechesis.net/cac-darsana-trong-triet-hoc-an-do-1-2/ (cập nhật ngày 11.5.2023)
----------
---Còn tiếp---