TÌM HIỂU VÀ NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ - Phần 9/15
Lm. Tôma Thiện Trần Minh Cẩm, OP.
c õ ª õ d
PHẦN III:NHỮNG QUAN NIỆM TRIẾT LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC CĂN BẢN CỦA ẤN ĐỘ
CHƯƠNG I: QUAN NIỆM VỀ THƯỢNG ĐẾ
Chúng ta thường gặp khó khăn khi nghiên cứu tư tưởng Ấn Độ, bởi vì phương tiện tri thức của người Ấn Độ khác với phương tiện tri thức của phần đông các triết gia và các nhà thần học Tây phương mà chúng chịu ảnh hưởng từ xưa nay. Thật vậy, trong khi các triết gia và thần học gia Tây phương tìm tới chân lý bằng lý luận, thuần lý, loại suy và dựa trên những sách vở, tài liệu chứng minh; các nhà triết Ấn Độ vẫn thường là những nhà đạo sĩ, pháp sư, những nhà tu hành khắc khổ ưa chiêm niệm, trầm lặng khảo cứu, lý luận: phương tiện tri thức chính của họ là trực quan. Nói cho đúng, họ không chủ trương biết để biết, nhưng cái biết mà họ cố gắng đạt tới phải là cái Trí Huệ (prajnâ sagesse) tự nó giải thoát con người. Tri và hành ở đây là một, hay nói khác đi, vấn đề Thượng đế hay Thực thể tối hậu đối với các hiền triết (risis) Ấn Độ là vấn đề phải “thực hiện” hơn là vấn đề tri thức, hiểu biết suông, nghĩa là đối với họ, cái BIẾT ở đây phải trùng hợp với cố gắng giải thoát bằng cách thực hiện sự đồng hoá mình với chân lý tối hậu: Tat tvm asi (anh ấy là cái ấy). (cf. l. Renou, L’indouisme, Que sais je ? , n.475, 1961, tr. 50).
Nhưng chân lý tối hậu là gì?
I. TUYỆT ĐỐI VÔ NGÃ (BRAHMAN)
Từ thời Veda, nguyên nhân đầu của vạn sự thường được chỉ định bằng một từ trung tính (neutre): brahman (phạm thiên) hay là sat (hiện hữu), tat (cái ấy), ekam (nhất, một) … hay bằng những tiếng mà theo văn phạm tuy thuộc nam tính nhưng thường không được áp dụng cho một hữu thể hữu ngã, như là: Âtman (nghĩa đen là hơi thở; ngã … hồn), ouchista (cái gì còn lại), chẳng hạn như chúng ta đọc trong kinh Veda:
“thuở ấy không có vô hữu mà cũng chẳng có Hữu
chẳng có không gian cũng chẳng có bầu trời ở trên
cái gì vận chuyển mạnh mẽ ? ở đâu ? ai trông coi nó ?
phải chăng là nước sâu vô lượng ?
…
thưở ấy chẳng có chết, cũng chẳng có không chết
chẳng có dấu gì phân biệt đêm và ngày.
Một ekam, hô hấp nhờ sự hưng phấn riêng của mình
Mà không cần có hơi thở.
Ngoài cái đó ra, không có gì khác nữa.
Từ nguyên thuỷ, tăm tối che phủ tăm tối.
Vũ trụ này chỉ là ba đào bất phân biệt.
Khi ấy, nhờ sức mạnh của cường nhiệt, một sinh ra,
(nó là nguyên lý) trống rỗng, bao phủ bởi chân không.
Sự khai trương nguyên thủy là ái dục,
(ái dục) là mầm sống đầu tiên của thức ( conscience)
bằng cách tra vấn nơi chính mình, các thi nhân đã biết
khám phá, nhờ suy niệm, cái tương quan giữa hữu thể và vô hữu
…
ai nhận biết được, ai có thể tuyên bố ra đây rằng
tạo vật phụ thuộc ( thế giới hiện tượng) này
bởi đâu mà sinh ra, bởi đâu mà đến ?
các thần (sinh ra) sau, nhờ sự sáng tạo thế giới của chúng ta
nhưng ai biết được thế giới này bởi đâu mà ra ?
thế giới hiện tượng này bởi đâu mà có ?
nó đã được tạo dựng hay không ?
chỉ có đấng từ trên cao thẳm trông coi thế giới mới biết được
ngoại trừ ngài không biết ?
(RigVeda X, 129)
Và trong tập Bhâhdâranyaka cổ kính:
Khởi thủy chỉ có Âtman hiện hữu dưới hình thể Purusa (nghĩa đen là người). Nhìn chung quanh, (Âtma) không thấy chi khác ngoài chính mình. Trước hết, Âtma nói: có tôi. Bởi đó mà có tên “tôi”: cũng bởi đó mà ngày nay, nếu người ta gọi ai, người ấy trước hết trả lời: “có tôi đây”, và chỉ sau đó họ mới nói tên người khác là tên riêng của họ…
… Âtman sợ hãi: chính vì thế, nên ai ở một mình thì sợ. Thế rồi Âtman nghĩ: “bởi gì không có gì ngoài ta, ta còn sợ cái chi ?” và tức khắc cái sợ của tôi biến đi. Nó sợ cái chi nữa ? người ta chỉ sợ người khác thôi.
Nó cũng không có khoái lạc: vì thế, người ta ở một mình thì không có khoái lạc. Nó ao ước có (người) thứ hai. Mà Âtman to lớn bằng một người đàn ông và một người đàn bà đang ôm nhau. Nó tự tách ra làm hai từ đó có chồng và vợ. Chính vì vậy mà Yâjnavalkya nói: “ chúng ta mỗi người theo cá nhân là một nửa” chính vì thế mà chỗ trống còn lại đã được người nữ lấp đầy. Nó kết hợp với người nữ: bởi đó mà sinh ra người ta.
Người đàn bà mới suy nghĩ rằng: “sao lại thế, chính nó đã sinh ra ta, nó lại kết hợp với ta ? nào, ta phải trốn đi thôi!” nói đoạn nàng trở nên bò cái, chàng biến thành bò đực; nó kết hợp với bó cái, bởi đó mà sinh ra bò cái. Nàng trở nên ngựa cái, chàng ngựa đực, nàng trở nên lừa cái, chàng lừa đực; nó kết hợp với nàng: bởi đó mà sinh ra những loài có móng. Nàng trở thành dê cái, chàng dê đực, nàng biến thành chiên cái, chàng chiên đực, chàng kết hợp với nàng, bởi đó mà sinh ra dê và chiên. Cùng một cách thức như vậy đã sinh ra các giống vật đôi một cho tới loài kiến” (B.A.U.I. 4, 1-4).
Khởi thủy chỉ có Brahman. Brahman như vậy chỉ biết có một mình mình: “ta là Brahman”; và là tất cả… khởi thủy, chỉ có Brahman, chỉ mình Brahman thôi. Vì chỉ có một mình, Brahman không xuất hiện. Lúc ấy ở bên trên Brahman sinh ra một hình thể tốt đẹp hơn, đó là Ksatra tính chí thượng (souveraineté), các quyền tối cao đó thuộc về đám các thần: Indra, Varuna, Soma, Rudra, Parjanya, Mrtyu, Icâna. Bởi thế không có gì cao hơn quyền bính tối cao, và cũng vì thế mà ở trong râjasuya (buổi phong vương), người bàlamôn ngồi dưới ksatriya (cấp binh). Như vậy là để tôn kính quyền bính (ksatri); nhưng quyền bình tối cao là bởi Brahman, “ lòng mẹ” đã sinh ra mình. Ai đánh đập một Bàlamôn là làm thương tổn chính lòng mẹ mình…” (B.A.U.I. 4, 10, 11).
“Khởi thủy không có chi hết ngoài Âtman, mình Âtman thôi. Nó ao ước: chớ gì tôi có một người vợ và sinh con, có của cải cùng thực hiện những hành động. Thật vậy, cái đó bao gồm mọi ước muốn, và người ta không còn tìm ra gì để ước muốn thêm. Chính vì thế mà ngày nay cũng vậy, ai ở một mình cũng ao ước: chớ gì tôi có vợ, sinh con, có của cải và thực hiện những hành động. Bao lâu mà nó còn thiếu một trong những cái đó, nó còn cảm thấy thiếu thốn không đầy đủ. Đây là sự sung mãn của nó, lời nói là vợ nó, hơi thở (sự sống) là con nó, thị giác là những của cải trần thế bởi vì chỉ nhờ có thị giác người ta mới khám phá ra của cải, và thính giác là những của cải trên trời, bởi vì thính giác mà người ta thấu được giáo huấn; Âtman là chính hành động của nó. Bởi vì nhờ Âtman mà người ta hành động…” (B.A.U.I. 4, 17).
Hoặc trong tập Chândoya Upanisad:
“Tất cả cái gì co đấy đều là Brahman, phải nhận biết Brahman là khởi sự, cứu cánh và hiện tại của tất cả, người ta sẽ được bình an…” (ch. U. iii, 14,1).
Khởi sự vạn vật chỉ có hữu thể, có một không hai. Thật ra cũng có một vài người nói rằng: khởi thủy vạn sự chỉ có hư vô, có một không hai, từ hư vô sinh ra hữu thể. (cf. III, 19, 1-3; trait. V.II,7; rqv 72, 2-3).
Nhưng sao lại có thể thế được ? làm sao hữu thể lại có thể bởi hư vô mà sinh ra ? thực ra, khởi đầu vạn sự chỉ có hữu thể, có một không hai.
“Nó (hữu thể) nghĩ: chớ gì tôi có thể tự bội đại: chớ gì ta có thể sinh đẻ. Và nó sinh ra tejas (lửa nhiệt). Tejas nghĩ: chớ gì ta có thể bội đại; chớ gì ta có thể sinh đẻ; và nó sinh ra nước. Và vì thế mà mỗi khi người ta khóc hay chảy mồ hôi (do sức nóng hay do sự vất vả cực nhọc gây ra), một chất lỏng xuất hiện.
Nước nghĩ; chớ gì ta có thể tự bội đại: chớ gì ta có thể sinh đẻ ? và nó sinh ra đồ ăn. Chính vì thế mà bất cứ ở nơi nào hễ có mưa, là có dư đầy của ăn. Chính nhờ nước mà sinh ra đồ ăn” (Chu.VI. 2).
Tất cả những dẫn chứng trên đây cho chúng ta thấy rằng, tư tưởng của Ấn Độ trong buổi rạng đông triết học ớ xứ này mới chỉ là những tư tưởng huyền thoại.
Trong cái kho tàng phong phú bất tận này khó mà tìm ra được một hệ thống tư tưởng có mạch lạc, trái lại, người ta có cảm tưởng rằng: chính các nhà hiền triết của sông Ganga cũng còn đang mò mẫm trong một đêm tối của mầu nhiệm. Mà nói cho cùng, mầu nhiệm hiện hữu chẳng bao giờ con người có thể khám phá cho hết được.
Vậy cái mà các nhà hiền triết Ấn Độ gọi là Brahman, Âtman, sat hay ekam, phạm thiên, ngã, hữu thể, hay Một… chẳng qua cũng cùng là Thực thể tối hậu. Thực thể tối hậu ấy, hay chân lý cuối cùng của vạn sự, được quan niệm như một nguyên lý độc nhất, là cái gì sâu xa nhất, tế nhị nhất, cái gì là khởi thủy vạn sự? “cái ấy” có thể quan niệm như một thượng đế, một tạo hóa hữu ngã (en dieu ou créateur personnel) nhưng cũng có thể quan niệm như một nguyên lý vô ngã (principe impersonnel).
Điều làm cho chúng ta phải lúng túng không biết phải hiểu cái nguyên lý tối hậu này theo nghĩa “hữu ngã” hay theo nghĩa “vô ngã”, là vì không có sự xác định rõ rệt giữa cái ngã cá nhân với cái ngã vũ trụ. Mà thật ra, hình như người ta cũng chưa ý thức rõ rệt về sự khác biệt ấy.
Thật vậy, nói theo Chândogya Áo nghĩa thư: “ngã ở trong nội cung của tâm tôi, nhỏ hơn một hạt thóc, nhỏ hơn một hạt lúa mạch, nhỏ hơn một hạt cải, nhỏ hơn một hạt kê, nhỏ hơn cái nhân của hạt kê, cũng cái ngã ở trong nội cung của tâm tôinày lớn hơn cả không gian, lớn hơn trời, lớn hơn tất cả mọi thế giới.
Nguồn mọi hoạt động, mọi ước vọng, mọi cảm giác, như khứu giác hay vị giác, bao gồm tất cả những gì có đấy, lặng thinh, vô tư lạnh lùng, đó chính là cái ngã ở trong nội cung của tâm tôi. Đó chính là braham. Ai tự nói với mình: “khi ra khỏi đời này, tôi sẽ gặp lại ngài” người đó quả không phải nghi ngờ chi. (iii, 14, 3-4).
Ở trong Brhadâranyaka Áo nghĩa thư trái lại đôi khi hình như người ta đã thoáng có quan niệm một thượng đế, chẳng hạn khi người ta nói Âtman là deva (thần), là chủ quá khứ và tương lai (iv, 4, 15); là hơi thở của hơi thở (prânasya prânam), là tâm linh của tâm linh… (manaso mano). Hay khi người ta nói rằng đại Âtman không có khởi thủy không già, bất tử, hạnh phúc. (B.A.U IV 2, 25; cf. 20; iv, 5, 14).
Nhưng tư tưởng một thượng đế chỉ thoáng qua tâm trí của nhà hiến triết. Sang tới chương V, tác giả của Brhadâranyaka Áo nghĩa thư lại nói rằng: “Khởi thủy chỉ có nước, nước sinh ra thực thể (satyan) thực thể sinh ra brahman, braman sinh ra prajâpati, prajâpati sinh ra các thần” (v, 5, 1).
Trong những tập Áo nghĩa thư trung cổ[1] người ta vẫn chưa thấy rõ rệt một tư tưởng dứt khoát về Thượng ?ế hữu ngã, tuy nhiên đã bắt đầu có sự phân biệt giữa cái gì là tâm linh, cái gì là vật chất, và theo quan niệm một số nhà hiền triết: chính cái tâm linh thuần tuý đã biến dịch qua nhiều giai đoạn để trở thành vật chất hữu hình.
Quan niệm một tâm linh biến dịch hoá thành vật chất này có thể nói là được đa số các hiền triết Ấn Độ chấp nhận, người ta hoặc diễn tả qua tư tưởng đó học thuyết về ba guna (đặc tính). (cf. Cvet.up. 1,3; 4,5; 5,5; 5,7). Đó là Sattva (tốt, trong sáng) tượng trưng bằng màu trắng; rajas (bụi, đam mê) tượng trưng bằng màu đỏ hay nâu; và tamas ( đen tối, u mê) tượng trưng bằng màu đen, hoặc người ta sẽ cho rằng những gì vật chất hữu hình chẳng qua chỉ là trò ảo thuật (Mâya) do thần Civa bày ra mà thôi.
Cứu cánh hay giải thoát của con người theo quan niệm của Áo nghĩa thư là trở về nguyên lý thủ tiên, trở về cái gì là viên mãn tròn đầy trong sáng, không còn lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” nữa. Trở về với cái thực tính tròn đầy trong sáng, cái thuần Sattva, đó chính là đi vào trong hoan lạc, hay nói khác đi, đồng hoá với brahman là hoan lạc như câu nói bất hủ của Taittiriya Áo nghĩa thư: Anandâd hy evakhalv imâni bhutani jâyante, ânandena jâtani jivananti, ânandâm prayanty abhisamvicanti”. “Thế giới này sinh ra do hoan lạc, nó được hoan lạc nâng đỡ, nó đi về hoan lạc và đi vào trong hoan lạc” (III, 6, 1) mà hoan lạc đó chính là brahman. (id)
c õ ª õ d
---Còn tiếp---