Ngày tháng: 21/01/2025
Đang truy cập: 216

TỪ ĐỨC TIN CỦA THÂN MẪU ĐỨC GIÊSU ĐẾN ĐỨC TIN CỦA CÁC MÔN ĐỆ (1)

TỪ ĐỨC TIN CỦA THÂN MẪU ĐỨC GIÊSU ĐẾN ĐỨC TIN CỦA CÁC MÔN ĐỆ.

Chú Giải Tin Mừng CN II TN C (Ga 2,1-12)

 

Bản Văn và dịch sát nghĩa

Hy Lạp

Việt

Καὶ τῇ ἡμέρᾳ τῇ τρίτῃ γάμος ἐγένετο ἐν Κανὰ τῆς Γαλιλαίας, καὶ ἦν ἡ μήτηρ τοῦ Ἰησοῦ ἐκεῖ·

 

 2  ἐκλήθη δὲ καὶ ὁ Ἰησοῦς καὶ οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ εἰς τὸν γάμον.

 

 3  καὶ ὑστερήσαντος οἴνου λέγει ἡ μήτηρ τοῦ Ἰησοῦ πρὸς αὐτόν· οἶνον οὐκ ἔχουσιν.

 

 4  [καὶ] λέγει αὐτῇ ὁ Ἰησοῦς· τί ἐμοὶ καὶ σοί, γύναι; οὔπω ἥκει ἡ ὥρα μου.

 

 5  λέγει ἡ μήτηρ αὐτοῦ τοῖς διακόνοις· ὅ τι ἂν λέγῃ ὑμῖν ποιήσατε.

 

 6  ἦσαν δὲ ἐκεῖ λίθιναι ὑδρίαι ἓξ κατὰ τὸν καθαρισμὸν τῶν Ἰουδαίων κείμεναι, χωροῦσαι ἀνὰ μετρητὰς δύο ἢ τρεῖς.

 

 7  λέγει αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς· γεμίσατε τὰς ὑδρίας ὕδατος. καὶ ἐγέμισαν αὐτὰς ἕως ἄνω.

 

 8  καὶ λέγει αὐτοῖς· ἀντλήσατε νῦν καὶ φέρετε τῷ ἀρχιτρικλίνῳ· οἱ δὲ ἤνεγκαν.

 

 9  ὡς δὲ ἐγεύσατο ὁ ἀρχιτρίκλινος τὸ ὕδωρ οἶνον γεγενημένον καὶ οὐκ ᾔδει πόθεν ἐστίν, οἱ δὲ διάκονοι ᾔδεισαν οἱ ἠντληκότες τὸ ὕδωρ, φωνεῖ τὸν νυμφίον ὁ ἀρχιτρίκλινος

 

 10  καὶ λέγει αὐτῷ· πᾶς ἄνθρωπος πρῶτον τὸν καλὸν οἶνον τίθησιν καὶ ὅταν μεθυσθῶσιν τὸν ἐλάσσω· σὺ τετήρηκας τὸν καλὸν οἶνον ἕως ἄρτι.

 

 11  Ταύτην ἐποίησεν ἀρχὴν τῶν σημείων ὁ Ἰησοῦς ἐν Κανὰ τῆς Γαλιλαίας καὶ ἐφανέρωσεν τὴν δόξαν αὐτοῦ, καὶ ἐπίστευσαν εἰς αὐτὸν οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ.

 

12  Μετὰ τοῦτο κατέβη εἰς Καφαρναοὺμ αὐτὸς καὶ ἡ μήτηρ αὐτοῦ καὶ οἱ ἀδελφοὶ [αὐτοῦ] καὶ οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ καὶ ἐκεῖ ἔμειναν οὐ πολλὰς ἡμέρας.

1 Và vào ngày thứ ba có một đám cưới tại Cana miền Galilaia và thân mẫu của Đức Giêsu đã đó.

 

2 Đức Giêsu cùng các môn đệ cũng đến đám cưới.

 

3 Khi thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói cùng Người: “Họ không có rượu”

 

4 Đức Giêsu nói cùng mẹ: “Này người phụ nữ! Có chuyện gì liên quan đến bà và con? giờ của con chưa đến

 

5 Thân mẫu của Người nói cùng những người phục vụ: “Hãy làm điều mà Người nói cùng các anh

 

6 Có sáu chum đá được đặt ở đó theo nghi thức thanh tẩy của người Do Thái, mỗi cái chứa hai hoặc ba thùng nước.

 

7 Đức Giêsu nói cùng họ: “Hãy làm những chum này đầy nước và họ đã làm đầy chúng tới miệng.

 

8 Rồi Người nói cùng họ: “Bây giờ hãy múc và mang cho người chủ tiệc. Rồi họ múc ra.

 

9 Khi người chủ tiệc nếm thử nước đã trở thành rượu và ông ta không biết từ đâu ra, nhưng những người phục vụ, những người múc nước thì đã biết. Người chủ tiệc mới gọi chú rể.

 

10 và nói cùng anh ta: “Mọi người đều đãi rượu ngon trước và khi họ say rồi mới đãi rượu kém hơn, ông lại giữ rượu ngon cho đến giờ này”.

 

11 Đây là dấu [lạ] đầu tiên Đức Giêsu làm tại Cana, miền Galilaia và bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ của Người đã tin vào Người. 12 Sau sự kiện này, Đức Giêsu đi xuống Capharnaoum. Người cùng với thân mẫu Người, anh em Người, ở lại đó nhiều ngày.

Bối cảnh:

Trong bối cảnh rộng Ga 2,1-11 phần thứ hai của Tin Mừng Gioan, được gọi là sách các dấu (1, 19 – 12, 50). Đoạn văn này là dấu lạ đầu tiên trong phần nói về các dấu này[1]. Trong bối cảnh hẹp hơn. Đoạn văn này nằm trong đoạn lớn được đóng khung bằng địa danh “Cana”: Từ Cana đến Cana (2, 1 – 4, 54). Phần này được đóng khung bằng hai dấu lạ tại Cana. Hóa nước thành rượu (2,1-11) là dấu lạ đầu tiên tại Cana và chữa lành con của một sỹ quan cận vệ của nhà vua (4,46-54) là dấu lạ thứ hai. Trong bối cảnh trực tiếp, Ga 2,1-11 được đặt ngay sau trình thuật nói về việc Đức Giêsu tuyển chọn những môn đệ đầu tiên (Ga 1,35-51). Họ đi theo Đức Giêsu đến tiệc cưới Cana. Chính nơi đây họ đã được chứng kiến tận mắt “dấu lạ bày tỏ vinh quang” của Đức Giêsu. Chính dấu lạ này đã là bằng chứng sống động làm cho họ tin vào Người. Chủ đề đức tin của các môn đệ qua dấu lạ tại tiệc cưới Cana lại được tiếp nối trong trình thuật tiếp theo sau đó, nói về sự kiện Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ (Ga 2,13-22). Trình thuật này lại được kết thúc bằng niềm tin của các môn đệ: “Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều ấy, họ tin vào Thánh Kinh và lời Đức Giêsu đã nói” (Ga 2, 22). Đức tin là chủ đề quan trọng bậc nhất bao quát toàn bộ Tin Mừng Gioan từ Lời Tựa cho đến lời kết. Trong Lời Tựa tác giả đã giới thiệu rằng “những ai đón nhận [Người], tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1, 12). Tin Mừng thứ tư khép lại bằng lời diễn tả mục đích của toàn Tin Mừng: “Những gì được chép ra để anh chị em có thể tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và nhờ tin mà anh chị em có thể có sự sống nhờ danh Người” (Ga 20, 31).

Cấu trúc

Đoạn văn Ga 2,1-11 được xây dựng trên chủ đề niềm tin. Phần “dấu lạ” – cơ sở của niềm tin, chính là trung tâm của cấu trúc quy tâm. Trước phần dấu lạ là phần diễn tả niềm tín thác của thân mẫu Đức Giêsu. Niềm tín thác này đối xứng với niềm tin của các môn đệ sau khi đã thấy dấu lạ.

 

Bối cảnh: Nơi chốn, nhân vật, thời gian, sự kiện (1-2)

          (A)Niềm tín thác của thân mẫu Đức Giêsu – niềm tin trước dấu lạ (3-6)

                   (B) Dấu lạ - cơ sở cho niềm tin (7-10)

          (A’) Niềm tin của các môn đệ - niềm tin sau dấu lạ (11)

Kết thúc: Nơi chốn, nhân vật, thời gian (12)

 

Một số điểm chú giải

1.     Ngày thứ ba: Bối cảnh thời gian của câu chuyện được nói đến là “ngày thứ ba”. Ngày thứ ba tính từ đâu là một vấn đề mà các tác giả vẫn đang tranh cãi. Có tác giả cho rằng ngày thứ ba là tính từ sau khi Gioan Tẩy Giả nói về Phép Rửa của Đức Giêsu (Ga 1,29-34). Ngày thứ nhất được đề cập trong 1, 35 (hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông) và ngày thứ hai trong 1, 43 (hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi đến vùng Galilaia) và ngày thứ ba tức là ngày được nói đến trong Ga 2, 1 (ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana). Sau khi, Đức Giê-su tuyển chọn bốn môn đệ trong vòng hai ngày, ngày thứ ba thầy trò cùng nhau đi dự tiệc cưới ở Cana. Tuy nhiên, theo R. Brown, ngày nay hầu hết các tác giả tính từ ngày Đức Giêsu gọi hai ông Philípphê và Nathanael, đề nghị rằng, chính ngày hôm đó và ngày kế tiếp (hoặc hai ngày xen kẽ) là khoảng thời gian Đức Giêsu đi từ thung lũng sông Giorđan đến Galilaia. Bởi vì ở dấu lạ thứ hai tại Cana, tác giả cũng ghi chú thời gian là “sau hai ngày” (4, 43), nên một vài nhà chú giải cho rằng, tác giả muốn ám chỉ đến sự sống lại[2]. Ngày thứ ba cũng có thể liên quan đến ngày thần hiện của Đức Chúa với dân Ítrael trên núi Sinai: “Hãy nói với dân và bảo họ: Hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt dũ quần áo và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Đức Chúa hiện xuống trên núi Sinai trước mặt toàn dân” (Xh 19,11.16)[3]. Nếu tính theo thứ tự thời gian trong Tin Mừng thứ tư thì rất khó hiểu tại sao Ga 2, 1 lại là ngày thứ ba bởi vì trước đó Gioan đã dùng từ chỉ thời gian “ngày hôm sau” đến ba lần (1,29.35.43). Điều này có nghĩa là, nếu tính theo thứ tự thời gian, ngày có tiệc cưới Cana phải là ngày thứ năm chứ không phải ngày thứ ba. Chính vì thế, có lẽ tốt hơn nên hiểu con số này như là con số biểu tượng có liên quan đến biến cố Phục Sinh và cuộc thần hiện của Chúa trên núi Sinai. Trong trình thuật “thanh tẩy đền thờ” tiếp sau đoạn văn này, Đức Giêsu cũng đề cập đến việc Người sẽ phục hồi đền thờ lại trong “ba ngày”. Đền thờ đó chính là thân thể Người (Ga 2,19-20)[4].

2.     “Thân mẫu của Đức Giêsu đang ở đó”: Danh xưng “thân mẫu” dành cho Đức Maria được dùng 10 lần trong Tin Mừng Gioan. Ngoài Đức Maria chỉ có một lần duy nhất tác giả dùng chung chung để nói về “lòng mẹ” (Ga 3, 4). Trong đoạn văn này tác giả dùng bốn lần danh xưng này (2,1.3.5.12). Một lần trong bối cảnh người Do Thái bàn về nguồn gốc của Đức Giêsu: Cha và mẹ của ông ta chúng ta đều biết cả, sao ông ta lại nói “tôi từ trời xuống”? (Ga 6, 42). Năm lần còn lại trong bối cảnh dưới chân thập giá (19,252.262.27). Trong 10 lần đó, có 9 lần Đức Maria được gọi là thân mẫu của Đức Giêsu (hoặc là của Người), một lần cuối cùng, Đức Maria được chuyển thành “mẹ của con” (Người Môn đệ được Chúa yêu, 19, 27). Danh xưng thân mẫu là độc quyền cho Đức Maria trong Tin Mừng thứ tư, và cũng chỉ có trong Tin Mừng thứ tư có sự chuyển đổi từ thân mẫu Đức Giêsu qua thân mẫu của “Người môn đệ được Chúa yêu”. Thân mẫu của Đức Giêsu là nhân vật được nhắc đến đầu tiên trong câu chuyện này.  Việc danh xưng “thân mẫu của Đức Giêsu” được nhắc lại bốn lần trong đoạn này cho thấy tác giả như nhấn mạnh địa vị và vai trò của Đức Maria trong cương vị là “thân mẫu Đức Giêsu”. Bà là nhân vật đóng vai trò quan trọng trong dấu lạ này. Tác giả cho biết là “thân mẫu Đức Giêsu” ở đó. Động từ “eimi”, thì vị hoàn, diễn tả một sự hiện diện lâu dài trong đám cưới này. Dường như tác giả muốn cho thấy rằng Đức Maria, không đơn thuần chỉ là một vị khách, nhưng có vai trò và vị trí đặc biệt trong bữa tiệc này[5]. Ngay cả Đức Giêsu và các môn đệ cũng chỉ được nhắc đến sau, và được diễn tả bằng động từ đến. Họ đến dự tiệc cưới, còn Đức Maria thì ở đó trước họ. Trong câu chuyện này, vai trò Đức Maria được thể hiện rõ khi bà là người đã để ý đến tình huống “thiếu rượu” của nhà tiệc và đã nói cùng Đức Giêsu. Đó chính là điểm bắt đầu của dấu lạ. Không những thế, bà còn căn dặn những người phục vụ làm theo lời Đức Giêsu nói. Dường như bà đã tin và biết Đức Giêsu có thể làm gì và sẽ làm gì. Hoặc ít ra, bà tín thác mọi chuyện trong tay Đức Giêsu.

3.     Đám cưới: Tiệc cưới thường bao gồm một cuộc rước trong đó những người bạn của chú rể đón cô dâu đến nhà chú rể. Sau đó, một tiệc cưới linh đình được diễn ra sau đó, thường kéo dài đến bảy ngày (Tl 14, 12; Tb 10, 8). Theo quy định của Misnah, đám cưới của một trinh nữ nên được tổ chức vào ngày Thứ Tư[6]. Đám cưới có thể là hình ảnh ẩn dụ cho tiệc cưới giữa Đấng Mêsiah và dân Người. Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu là chàng rể, còn ông chỉ là bạn của chàng rể (Ga 3, 29). Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giêsu ví mình như chàng rể “đang còn ở” với các môn đệ và sẽ đến lúc “bị mang đi” khỏi họ (Mc 2,19-20; Mt 9, 15; Lc 5,34-35). Nước Trời cũng được mô tả như một tiệc cưới mà ông vua tổ chức cho con mình (Mt 22,1-14; Lc 14, 15-21). Dụ ngôn “mười trinh nữ” cũng đề cập đến nghi thức chàng rể đi đón cô dâu và kết thúc bằng việc phòng tiệc cưới được đóng lại (Mt 25,1-13). Sách Khải Huyền cũng nói đến một hôn lễ của Con Chiên trong tương lai (Kh 19,7-9)[7].

4.     Rượu (thiếu rượu – rượu ngon): Rượu là thức uống mang lại niềm vui cho thực khách, và không thể thiếu trong các bữa tiệc từ xưa đến nay và trong hầu hết các nền văn hóa Đông-Tây. Việc thiếu rượu, sẽ làm cho thực khách mất vui, cụt hứng và gia chủ cảm thấy buồn phiền, xấu hổ.[8] Đức Giêsu đã chẳng những giữ lại niềm vui cho thực khách, cứu lấy danh dự của chủ tiệc, mà còn góp phần tăng thêm niềm vui, góp phần làm cho tiệc cưới trở nên trọn vẹn khi Người đã biến nước thành rượu ngon. Rượu càng ngon thì thực khách càng vui và rượu nhiều giúp cho bữa tiệc kéo dài trong hoan hỷ. Cũng như hình ảnh tiệc cưới tượng trưng cho bữa tiệc của Đấng Mêsiah vào thời cánh chung, rượu ngon cũng có nhiều ý nghĩa ẩn dụ. Tác giả G.L.M. Thông nghĩ rằng bữa tiệc cùng với rượu ngon là dấu hiệu của niềm vui thời Mêsiah như cách ngôn sứ Isaiah diễn tả: “Ngày ấy, trên núi này, Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc, tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25, 6)[9]. Ông cũng tin rằng “rượu ngon” là “giáo huấn” của Đức Giêsu, “biểu tượng và sức sống của thời Tân Ước”… “Độc giả nghe và đón nhận lời Đức Giêsu mặc khải ví như thưởng thức thứ rượu ngon hảo hạng Người ban tặng”[10]. Tác giả F.X.V.P. Long ghi nhận rằng các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm ví giáo huấn của Đấng Kitô với rượu mới. Rượu này không thể pha trộn với rượu cũ của Do Thái giáo (x. Mt 9,14-17; Mc 2,18-22; Lc 5,33-39). Trong đoạn văn này, rượu tượng trưng cho lời của Chúa Kitô vì có hình ảnh liên hệ với việc Chúa ban Torah cho dân Ítrael trên núi Sinai vào ngày thứ ba[11].

5.     Cana: Có hai địa danh Cana ở vùng Galilaia. Địa danh thứ nhất đã được các tín hữu chọn làm địa điểm hành hương từ thời Trung Cổ, được gọi là Kefr Kenna, khoảng gần sáu kilômét (3,5 dặm), về hướng Đông Bắc của làng Nadarét. Địa danh này về mặt từ nguyên không đúng với địa danh Cana (Κανὰ), mà Gioan nói đến. Địa danh thứ hai là Khirbet Qânâ, khoảng hơn 14 kilômét (9 dặm), về phía Bắc của làng Nadarét. Địa danh này về mặt từ nguyên (Qânâ) xem ra phù hợp hơn theo định vị của sử gia Josephus[12]. Ngày nay, các nhà khảo cổ tin rằng địa danh sau là địa danh mà Gioan nói đến, mặc dù địa danh trước mới là nơi nổi tiếng và gần gũi với khách hành hương hơn. Trong bốn tác giả sách Tin Mừng, Gioan là người nhắc đến địa danh Cana nhiều nhất (4 lần: 2,1.11; 4, 46; 21, 2)[13]. Có thể nói rằng, trong truyền thống của Gioan, Cana là một địa danh rất quan trọng với niềm tin của các môn đệ và cộng đoàn những người tin. Có ít nhất hai dấu lạ Đức Giêsu làm tại vùng đất này. Dấu lạ chúng ta đang nói đến là dấu lạ đầu tiên và mấu chốt cho niềm tin của các môn đệ, những người vừa chân ướt chân ráo theo Đức Giêsu. Dấu lạ thứ hai, mang lại niềm tin cho một sỹ quan cận vệ của nhà vua (4,46-54). Trong dấu lạ này, người sỹ quan đã tin vào lời Đức Giêsu ngay khi ông chưa thấy dấu lạ: “Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình và ra về. Ông còn đang đi thì gia nhân đã đón gặp và nói: Con của ông đã sống rồi” (4,50-51). Rồi, ông và cả gia đình càng tin hơn khi đã thấy dấu lạ (4, 53).                                            

6.     “Thưa bà!” (γύναι): Cách gọi này rất khó chuyển ngữ trong Tiếng Việt. Bản Tiếng Anh là “woman!” (ESV); Tiếng Pháp là “femme!” (TOB), Tiếng Ý là “Donna!” (CEI). Tiếng Việt tương đương phải là “người đàn bà!” hoặc là “người phụ nữ!”. Bản Tiếng Việt “này bà!” (NTT) hay “thưa bà!” (CGKPV) vẫn không cho thấy được sự độc đáo của cách xưng hô này. Đây là cách xưng hô lịch sự Đức Giêsu thường dùng với những người phụ nữ: “Này người phụ nữ! Đức tin của bà mạnh thiệt” (Mt 15, 28); “Này người phụ nữ! Bà được giải thoát khỏi bệnh còng lưng” (Lc 13, 12)[14]. Phêrô cũng dùng cách này để xưng hô với người tớ gái: “Này người phụ nữ! Tôi không biết ông ta” (Lc 22, 57). Tin Mừng thứ tư ghi lại nhiều lần nhất Đức Giêsu sử dụng cách xưng hô này (5 lần), trong đó hai lần Người dùng nó để xưng hô với thân mẫu Người (4, 2; 19, 26). Một lần Người dùng cho người phụ nữ Samari (4, 21: Này người phụ nữ! Hãy tin Tôi, giờ đến khi người ta thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này cũng chẳng phải ở Giêrusalem). Người cũng sử dụng để gọi người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (8, 10: Này người phụ nữ! Họ đâu cả rồi? Không ai kết án chị sao?). Khi gọi Maria Madalena, Đức Giêsu cũng dùng cách gọi này: “Này người phụ nữ! Tại sao bà khóc? Bà đang tìm ai?” (Ga 20, 15). Xem ra, Đức Giêsu thường dùng cách gọi này cho nhiều người phụ nữ khác nhau. Nếu hiểu đó là cách gọi lịch sự thông thường, thì liệu Người có quá xa lạ, khoảng cách với thân mẫu khi xưng hô với bà như thế? Phải hiểu thế nào về cách xưng hô này của người con dành cho mẹ mình? Theo tác giả F.X.V.P. Long, từ ngữ này (người phụ nữ) “chắc chắn ở bình diện biểu tượng, có một gợi ý đến cuộc tạo dựng: Đức Maria xuất hiện như một Eva mới hoặc hơn nữa như đại diện của dân Ítrael, hoặc tốt hơn nữa, như là Ítrael đích thực”[15]. Sử gia Josephus kể câu chuyện rằng vợ của vua Pheroras nói với vua Erodes Cả xưng hô với bà là “Người phụ nữ!”. Đây là cách gọi yêu đầy yêu thương của một vị vua được tiếng là rất yêu vợ dành cho vợ mình[16]. Có thể đó là cách gọi đầy yêu thương mà Đức Giêsu dành cho thân mẫu của mình. Dựa vào bối cảnh Đức Giêsu trao thân mẫu lại cho môn đệ Người thương mến, chúng ta có thể hiểu cách gọi này như là cách gọi trang trọng dành cho mẹ của dân Ítrael mới, tức là cộng đoàn Kitô hữu, mà môn đệ Gioan là một đại diện. Trong bối cảnh tiệc cưới Cana, Đức Maria đã đứng ra can thiệp cho nhà tiệc như một người mẹ.

---Còn tiếp---

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
Nguồn: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2022/01/tu-uc-tin-cua-than-mau-uc-giesu-en-uc.html (cập nhật ngày 18/01/2025)

---------------------------------------------------------------------------

[1] Tin Mừng thứ tư ghi lại 8 dấu lạ, trong đó 7 dấu lạ nằm trong “Sách các dấu”: 2,1-11; 4,46-54; 5,1-9; 6,1-15; 6,16-20; 9,1-41; 11,1-46; 21,1-14.

[2] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) XXIX, 97.

[3] X. F.X.V.P. Long, Các Bài Tin Mừng Gioan Dùng Trong Phụng Vụ (Tp.HCM 2021) 81.

[4] Xem sự liên hệ giữa ba cụm từ “vào ngày thứ ba” (2,1a), “trong ba ngày” (2,19b) và “lần thứ ba” cùng với ý nghĩa thần học của chúng, trong G.L.M. Thông, Chú Giải Tin Mừng Gioan Tập 1. Ga 1,1 – 2,22 (TP. HCM 2021) 279-280.

[5] The fact that she is the first person introduced to the account, even preceding Jesus, is a sign that what she says and does is crucial to the story [F.J. Moloney, The Gospel of John (SP 4; Collegeville 1998) 71].

[6] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes, 98.

[7] X. F.X.V.P. Long, “Tin Mừng Gioan Dùng Trong Phụng Vụ”, 81.

[8] G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 2002) XXXVI, 34.

[9] X. G.L.M. Thông, “Chú Giải Tin Mừng Gioan”, 327-328.

[10] X. G.L.M. Thông, “Chú Giải Tin Mừng Gioan”, 331-332.

[11] X. F.X.V.P. Long, “Tin Mừng Gioan Dùng Trong Phụng Vụ”, 85-86.

[12] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes, 98.

[13] Xem thêm thảo luận về bốn lần xuất hiện của địa danh Cana trong Tin Mừng thứ tư, trong G.L.M. Thông, “Chú Giải Tin Mừng Gioan”, 281-282.

[14] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes, 99.

[15] X. F.X.V.P. Long, “Những Bài Tin Mừng Gioan”, 82.

[16] G.R. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 2002) XXXVI, 34.

zalo
zalo