Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Vọng - Năm C (Lc 3,1-6)
TỪ PHÉP RỬA HOÁN CẢI ĐẾN ƠN CỨU ĐỘ - Phần 1/3
Bản văn và bản dịch sát nghĩa
Hy Lạp | Việt |
Ἐν ἔτει δὲ πεντεκαιδεκάτῳ τῆς ἡγεμονίας Τιβερίου Καίσαρος, ἡγεμονεύοντος Ποντίου Πιλάτου τῆς Ἰουδαίας, καὶ τετρααρχοῦντος τῆς Γαλιλαίας Ἡρῴδου, Φιλίππου δὲ τοῦ ἀδελφοῦ αὐτοῦ τετρααρχοῦντος τῆς Ἰτουραίας καὶ Τραχωνίτιδος χώρας, καὶ Λυσανίου τῆς Ἀβιληνῆς τετρααρχοῦντος, 2 ἐπὶ ἀρχιερέως Ἅννα καὶ Καϊάφα, ἐγένετο ῥῆμα θεοῦ ἐπὶ Ἰωάννην τὸν Ζαχαρίου υἱὸν ἐν τῇ ἐρήμῳ. 3 Καὶ ἦλθεν εἰς πᾶσαν [τὴν] περίχωρον τοῦ Ἰορδάνου κηρύσσων βάπτισμα μετανοίας εἰς ἄφεσιν ἁμαρτιῶν, 4 ὡς γέγραπται ἐν βίβλῳ λόγων Ἠσαΐου τοῦ προφήτου· φωνὴ βοῶντος ἐν τῇ ἐρήμῳ· ἑτοιμάσατε τὴν ὁδὸν κυρίου, εὐθείας ποιεῖτε τὰς τρίβους αὐτοῦ· 5 πᾶσα φάραγξ πληρωθήσεται καὶ πᾶν ὄρος καὶ βουνὸς ταπεινωθήσεται, καὶ ἔσται τὰ σκολιὰ εἰς εὐθεῖαν καὶ αἱ τραχεῖαι εἰς ὁδοὺς λείας· 6 καὶ ὄψεται πᾶσα σὰρξ τὸ σωτήριον τοῦ θεοῦ. (Lc 3,1-6 BGT) |
1 Vào năm thứ 15 của triều đại Tiberios Caisar, Pontios Pilatos cai trị vùng Giuđaia, Êrôđes là tiểu vương vùng Galilaia, Philippos, em của ông làm tiểu vương vùng Ituraios và Trakhonitis và Lysanias làm tiểu vương vùng Abilene. 2 Annas và Caiaphas làm thượng tế, có lời Chúa trên Gioanes, con ông Dacarias trong hoang địa. 3 Và ông đi khắp vùng phụ cận của Giorđanes rao giảng Phép Rửa của lòng hoán cải nhằm được ơn tha tội. 4 Như đã được chép trong sách của lời ngôn sứ Esaias: “Có tiếng người hô trong hoang địa: ‘Hãy làm con đường của Chúa, làm cho thẳng lối đi của Người’”. 5 Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy và mọi đồi núi sẽ được san bằng, những điều quanh co trở nên thẳng tắp, những điều gồ ghề thành đường trơn tru. 6 Và mọi xác phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. |
Bối cảnh
Đoạn Lc 3,1-6 nằm trong phần được gọi là “chuẩn bị cho sứ vụ công khai” (3, 1 – 4, 13). Phần này nằm ngay sau phần “Giáng sinh và thời thờ ấu” (1, 5 – 2, 52) và ngay trước phần nói về “sứ vụ tại Galilaios (4, 14 – 9, 50)[1]. Gioan Tẩy Giả được giới thiệu như là người dọn đường cho Đức Giêsu. Vì thế, trước khi Đức Giêsu rao giảng, Gioan Tẩy Giả rao giảng trước như là một bước chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu. Trong bối cảnh gần Lc 3,1-6 là phần đầu tiên nói về sứ vụ rao giảng và làm Phép Rửa của Gioan trong 3,1-20. Luca đưa Gioan vào trung tâm sân khấu của sứ vụ ngôn sứ rồi lại rút Gioan ra để nhường chỗ lại cho Đức Giêsu[2]. Trong bối cảnh rộng hơn, ngay trong phần trình thuật về Giáng Sinh và thời thơ ấu của Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả, Luca đã cho thấy một sự nối kết gần gũi, kẻ trước người sau trong những trình thuật song đối của mình. Truyền tin cho ông Dacarias (Cha của Gioan Tẩy Giả) (1,5-25) // Truyền tin Đức Maria (Mẹ của Đức Giêsu) (1,26-38); Bài Ca Magnificat của Đức Maria (1,46-55) // Bài ca Benedictus của ông Dacarias (1,67-79); Gioan Tẩy Giả được sinh ra (1,57-58)// Giáng Sinh của Đức Giêsu (2,1-20); Gioan được cắt bì (1,59-66)// Đức Giêsu được cắt bì (2, 21); Gioan Tẩy Giả sống ẩn giật (2, 80)// Đức Giêsu sống ẩn giật (2,39-40). Hơn nữa, Luca cũng là tác giả duy nhất cho biết Gioan Tẩy Giả là người anh họ của Đức Giêsu. Nơi Luca, độc giả có thể thấy được sứ mạng của Gioan ngay từ lúc chưa lọt lòng mẹ, đã hòa quyện với sứ vụ nhập thể của Đức Giêsu. Gioan rao giảng Phép Rửa để của lòng hoán cải để được ơn tha tội, còn Đức Giêsu sẽ là Đấng ban ơn tha tội (Lc 4, 18; 5,20.23). Người cũng là Đấng “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19, 10). Sứ vụ của Gioan được Luca nối kết với lời tiền báo trong sách ngôn sứ Isaiah (Is 40,3-5) nói về một tiếng của người hô trong hoang địa. Địa danh Giorđan được nhắc đến nơi ông Gioan rao giảng và lam Phép Rửa. Đức Giêsu cung sẽ chịu Phép Rửa tại sông Giorđan. Chủ đề ơn cứu độ là một chủ đề quan trọng trong truyền thống Tin Mừng. Ngôn sứ lão thành Simêon đã cầu xin cho mình được nghỉ yên vì chính mắt ông đã thấy “ơn cứu độ của Chúa” (Lc 2, 30; x. Lc 19, 9; Cv 2, 21; 4, 12).
Cấu trúc
Bối Cảnh Lịch Sử: (3,1-2a) Ơn gọi: Có lời Chúa trên Gioanes (3,2b) Sứ mạng: Ra đi và rao giảng Phép Rửa của lòng hoán cải (3,3). Lời trích sách ngôn sứ Isaiah (3,4-6) “Hãy làm con đường của Chúa, làm cho thẳng lối đi của Người” (3,4). Mọi thung lũng – lấp đầy Mọi đồi núi – san bằng, Những điều quanh co – thẳng tắp Những đường gồ ghề thành đường trơn tru (3,5) Mọi xác phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa (3,6). |
Một số điểm chú giải
1. Bối cảnh lịch sử: Khác với những tác giả Tin Mừng Nhất Lãm khác, Luca đưa ra một bối cảnh lịch sử khá chi tiết về thời điểm Gioan bắt đầu sứ vụ rao giảng, và dĩ nhiên đó cũng là bối cảnh của sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Tin Mừng Luca được viết cho các tín hữu nói tiếng Hy Lạp ngoài vùng Palestin. Vì thế, những chi tiết về bối cảnh lịch sử liên quan đến vùng đất Palestin, rất bổ ích cho độc giả của ông, và dĩ nhiên nó cũng có ý nghĩa thiết thực cho các độc giả qua mọi thời đại. Hơn nữa, Luca như muốn ấn định sứ vụ rao giảng của Gioan Tẩy Giả vào dòng lịch sử thế giới chứ không phải chỉ là sản phẩm văn chương. Các nhân vật mà Luca liệt kê danh tánh đều là những nhân vật lịch sử. Caisar Tiberios là hoàng đế thứ hai của đế quốc Rô-ma đô hộ tỉnh Giudaia. Hoàng đế thứ nhất là Caisar Augusto, 27 BCE – 14 CE). Tiberios Caisar cai trị miền Giudaia từ năm 14 CE đến năm 37 CE. Năm thứ mười lăm triều của hoàng đế này có lẽ vào khoảng năm 28 hoặc 29 CE[3]. Trong khoảng thời gian từ năm 6 đến năm 41 CE, hoàng đế Rô-ma thường đặt một tổng trấn để thay mặt hoàng đế coi sóc tỉnh Giudaia. Pontios Pilatos là một Tổng Trấn (tương đương với một Tỉnh Trưởng) của Rôma, đời thứ ba tại tỉnh Giuđaia, và là người cai trị lâu thứ hai trên vùng đất này (26-36 C.E.)[4]. Tỉnh Giudaia có thể bao gồm cả Samari và Idumea[5]. Tướng Pompey (thời hoàng đế Julius Caisar) chiếm vùng Palestin năm 63. Ít lâu sau đó, hoàng đế Rôma Caisar Augusto bổ nhiệm vua Êrôđes Cả làm vua chư hầu cả vùng Palestin (40 - 4 BCE). Sau khi vua Êrôđes cả qua đời, hoàng đế Caisar Augusto chia vương quốc của Êrôđes Cả thành ba miền, và cho ba người con Êrosđes Cả. Ông Êrôđes Antipas làm tiểu vương vùng Galilaia và Perea (4 CE – 39 CE); Ông Êrôđes Philippos, anh của ông làm tiểu vương vùng Ituraios và Trakhonitis (4 BCE – 34 CE); Ông Êrôđes Archelaus làm tiểu vương vùng Giudaia trong vòng thời gian ngắn (4 BCE – 6 CE). Sau khi ông Êrôđes Archelaus bị truất phế (do đề xuất của các phái đoàn Do Thái và người Samari), Giudaia chính thức trở thành một tỉnh của Rôma và bắt đầu thời kỳ các Tổng Trấn (6 CE – 40 CE).
Những Thượng Tế quan trọng được liệt kê trong danh sách là ông Annas (6 – 15 CE) và ông Caiaphas (18 – 36), con rể của ông Annas[6]. Đúng ra, vào thời Gioan rao giảng, thì ông Annas đã hết nhiệm kỳ làm Thượng Tế, nhưng có lẽ do tầm ảnh hưởng của ông vẫn còn lớn nên ông vẫn được Luca liệt vào danh sách hai vị Thượng Tế. Chính vì vị thế của ông vẫn còn, nên theo tác giả Tin Mừng thứ tư, khi bắt Đức Giêsu, quân lính dẫn Người đến nhà nhà ông Annas trước để chịu thẩm vấn, sau đó mới đến nhà Thượng Tế Caiaphas (x. Ga 18,13.24)[7].
Dữ liệu mà Luca gây tranh cãi và không có giải đáp thỏa đáng giữa các chuyên gia đương đại, là ông Lysanias làm tiểu vương vùng Abilene (phía Tây của Damascus). Có lẽ, Luca nghĩ rằng lãnh thổ của vua Êrođes được chia làm bốn phần nên ông thêm vào dữ liệu “ông Lysanias làm tiểu vương vùng Abilene”. Tuy nhiên, cũng có thể qua dữ liệu này, tác giả càng cho thấy ông có ý định gây chú ý đến thế giới dân ngoại hay đặc biệt để ý đến vùng này. Bởi lẽ, Abilene có gốc gác là một phần của Ituraios và sau đó hoàng đế Caius Caligula cùng với phần lãnh thổ của Êrođes Philippos cho Êrođes Agrippa I vào năm 37 CE. Vào thời điểm Luca viết Tin Mừng, vùng này thật sự là lãnh thổ của vua người Do Thái Agrippa II (53-100 CE)[8]. Với phần bối cảnh lịch sử này, Luca muốn giới thiệu với các tín hữu rằng Palestin vào thời Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả đang chịu ách nô lệ ngoại bang, có bối cảnh chính trị khá phức tạp. Từ bối cảnh ấy, vị ngôn sứ dọn đường cho Đấng Kitô xuất hiện mang đến một niềm hy vọng giải thoát cho dân nghèo lầm than, khốn khổ. Trong các nhân vật này, Êrodes Antipa ảnh hưởng lớn đến sứ vụ của Gioan. Ông bị Gioan lên án là “lấy vợ của anh trai mình” (Êrodias, vợ của tiểu vương Philippos) và nhiều tội ác khác nữa. Vì thế, ông đã tống ngục (Lc 3,18-20) và cho xử trảm Gioan Tẩy Giả sau đó (Lc 9, 9). Ông ao ước gặp Đức Giêsu (Lc 9, 9), nhưng rồi tỏ ra thất vọng vì Đức Giêsu không trả lời gì cả và không làm dấu lạ cho ông xem (Lc 23,8-12). Giống như Pilatos, Êrođes nghĩ rằng Đức Giêsu vô tội (x. Lc 23, 15). Pilatos là thẩm phán có quyền phán quyết cuối cùng trong vụ án của Đức Giêsu. Dù ông biết rõ Đức Giêsu vô tội và muốn thả Người (Lc 23, 20) nhưng cuối cùng trong tiếng la hét của dân chúng đòi đóng đinh Đức Giêsu, ông đành trao Người cho họ theo ý họ muốn (Lc 23, 25). Annas và Caiaphas là hai Thượng Tế đứng đầu giáo quyền Do Thái trong vụ án Đức Giêsu. Họ có ý kết án tử Đức Giêsu, nhưng người ra bản án ấy phải là Pilatos vì họ không có quyền lên án xử tử ai.
2. Có lời Chúa trên Gioanes (ἐγένετο ῥῆμα θεοῦ ἐπὶ Ἰωάννην): Đây là cách nói ngắn gọn về cuộc giao tiếp có tính mời gọi của Thiên Chúa dành cho ông Gioan Tẩy Giả. Cách nói này phỏng theo cách nói được dùng nhiều lần trong Cựu Ước (Có lời Chúa đến cùng Ápraham trong thị kiến: St 15,1.4; Có lời Chúa đến cùng Samuel: 1 Sm 15, 10; 2Sm 7, 4; Có lời Chúa đến với Salomon: 1 V 6, 11…). Nội dung lời mà Chúa nói với Gioan Tẩy Giả không được ghi lại, nhưng nó sẽ được bộc lộ ngay sau đó trong sứ vụ rao giảng và làm Phép Rửa của Gioan. Sứ vụ này theo ông suốt cả cuộc đời. Ông sẽ dành trọn cuộc đời còn lại của mình để làm người tiền phong cho Đấng Kitô. Hay nói đúng hơn ông sinh ra là cho sứ mạng này và sẽ chết cho sứ mạng này. Cái chết của ông sẽ là đỉnh cao của sứ vụ dọn đường của mình. Ông được nhắc đến như là con ông Dacarias. Trước đó, Luca đã dành nhiều trình thuật để nói về mối liên hệ này, cũng như sự giáng sinh cách bất thường của Gioan. Nhắc đến ông Dacarias là nhắc đến một dòng tộc tư tế. Ông thuộc nhóm tư tế Avigia. Hơn thế nữa, vợ ông bà Êlisabét cũng thuộc nòi giống tư tế truyền thống Aharon (x. Lc 1, 5). Nhắc đến Dacarias cũng là nhắc đến một gia đình “công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo điều răn và huấn lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì” (Lc 1, 6). Nhắc đến Dacarias cũng là nhắc đến lời giới thiệu của ông về sứ mạng của con mình: “Hài nhi hỡi, con sẽ là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ và tha cho họ hết mọi tội khiên” (Lc 2,76-77). Đây chính là sứ mạng mà Gioan sắp thi hành “rao giảng Phép Rửa của lòng hoán cải để được ơn tha tội” (Lc 3, 3). Bằng cách nối trình thuật về niên đại với câu “có lời Chúa đến cùng Gioan”, Luca giới thiệu những truyền thống về Gioan trong dòng những trình thuật về lời mời gọi mang tính ngôn sứ, tương tự như cách bắt đầu của một sách ngôn sứ. Qua đó, lời của Chúa và kế hoạch của Chúa đi vào trong thời gian qua sứ giả Gioan[9]. Sứ mạng ngôn sứ của ông đã được nhắc đến trong lời truyền tin cho thân phụ ông là Dacarias: “Em sẽ đi trước mặt Chúa để làm cho lòng cha ông quay về với con chau và để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại quay về nẻo chính đường ngay và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1, 17). Chính Đức Giêsu cũng xác nhận vai trò của Gioan: “Chính ông là người Thiên Chúa đã nói đến trong Thánh Kinh rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” (Lc 7, 27; x. Mlk 3, 1; Xh 23, 20). Gioan được mô tả là ở trong “hoang địa” (sa mạc) (Lc 3, 3) nối kết chặt chẽ với trình thuật về thời ẩn giật của ông: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítrael” (Lc 2, 80). Hơn nữa, “hoang địa” cũng nối kết với việc ngay sau đó tác giả sẽ trích lời ngôn sứ Isaiah về tiếng của một người “hô vang trong hoang địa” (Lc 3, 4), ngụ ý rằng người mà Isaiah nói chính là Gioan.
3. Vùng phụ cận của Giorđanes: Không giống với Máccô và Mátthêu, những tác giả nối kết “hoang địa” với nơi rao giảng của Gioan[10], Luca tách biệt khác rạch ròi: “Hoang địa” là nơi Gioan được mời gọi, có thể là nơi ông sống và chờ đợi tiếng gọi này; “Vùng chung quanh sông Giorđan” là nơi ông rao giảng. Vùng “quanh Giorđan” có thể là sa mạc Giuđaia như Mátthêu nói (Mt 3, 1) gần bên sông Giorđan. Tuy nhiên, như đã ghi chú, Luca có ý tách riêng hai nơi chốn, nơi hoang địa – nơi kêu gọi và vùng quanh Giorđan – nơi rao giảng. Vùng quanh Giorđan có thể là thung lũng sông Giorđan được nói đến trong Cựu Ước (St 13,10-11; 2 Sbn 4, 17) và ám chỉ đến vùng Sodom và Gomorrah, nơi tội lỗi từ xưa, nối kết với vùng tội lỗi Biển Chết, theo truyền thống Do Thái[11]. Lời rao giảng của Gioan nối kết với lời kêu gọi sự hoán cải giả định đó phải là nơi tội lỗi.
4. Phép Rửa của lòng hoán cải (βάπτισμα μετανοίας): Túc từ của động từ rao giảng của ông Gioan là “Phép Rửa của lòng hoán cải”: Danh từ “lòng hoán cải” (μετανοίας) được dùng ở thuộc cách của danh từ “Phép Rửa”. Cách dùng này thường dịch chung chung là “của lòng hoán cải”. Tuy nhiên, cấu trúc này trong tiếng Hy Lạp có thể hiểu theo hai nghĩa chính: Phép Rửa sinh ra lòng hoán cải (dưới tác động của Phép Rửa, họ sẽ hoán cải) và Phép Rửa chứng tỏ, thể hiện lòng hoán cải (nhận Phép Rửa chứng tỏ họ muốn hoán cải). A. Collins – H. Attridge đề xuất ít nhất 3 chiều kích cụm danh từ “Phép Rửa của lòng hoán cải”: (i) Một Phép Rửa có ý định xoa dịu ước muốn trừng phạt của Thiên Chúa trước tội lỗi của dân Người; (ii) Một nghi thức được cử hành nhằm tỏ lòng ăn năn hối cải của con người; (iii) Có khả năng hơn là, trong bối cảnh của các bản văn Do Thái thời Đệ Nhị Đền Thờ (516 BCE – 70 CE), “hoán cải” có nghĩa là một sự đáp trả tích cực, chủ động cho hành động đi bước trước của Chúa qua tác nhân là Gioan[12]. Phép Rửa này phát xuất từ ý định tốt lành của Thiên Chúa, Đấng muốn đem lại ơn tha thứ cho con người. Thế nhưng chính con người mới là chủ thể có thể chọn lựa với tự do đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng cách chịu Phép Rửa. Ý nghĩa của “sự hoán cải” có thể trải rộng theo ba cách. Thứ nhất, người chịu Phép Rửa ấy là người chứng tỏ mình có lòng hối cải. Họ đã có ý thức hối cải trước đó và Phép Rửa như là một biểu hiện cụ thể. Thứ hai, Phép Rửa ấy mang đến cho họ một quá trình hối cải cho đến khi họ nhận ơn tha thứ[13]. Thứ ba, những người đến đón nhận Phép Rửa ấy đã có lòng ao ước hoán cải, Phép Rửa như là một biểu hiện cụ thể và sau Phép Rửa họ lại tiếp tục thay đổi, hoán cải không ngừng. “Phép Rửa của lòng hoán cải” mà Gioan công bố mời gọi người ta ra khỏi sự tồn tại bình thường trong xã hội, để làm cho mình phù hợp với mục đích cứu chuộc cánh chung của Chúa. Bằng cách đi vào sa mạc để gặp Gioan, người ta chứng tỏ mình tách ra khỏi đời sống thường nhật, qua Phép Rửa, họ ôm lấy một sự chuyển đổi lòng trung thành trở thành thành viên của cộng đoàn dân Chúa[14]. Hoán cải (metanoia) không chỉ là một đòi hỏi dành cho những người tội lỗi, người không thanh sạch về luân lý, nhưng hơn hết là dành cho hết tất cả mọi người, nhằm biến đổi đời mình, xoay chuyển đời mình theo thánh ý Chúa. Đây chính là danh từ phát xuất từ động từ, mà Đức Giêsu đã dùng trong lời rao giảng đầu tiên của mình: “Thời kỳ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần bên, anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng”. (Mc 1, 11). Hoán cải ở đây rõ ràng là không chỉ giới hạn vào sự hối lỗi và chừa lỗi nhưng là biến đổi lòng mình, trí mình, hành vi của mình theo cách suy cách nghĩ và cách hành động của Chúa[15]. Nguồn gốc của Phép Rửa của ông Gioan là một câu hỏi quan trọng, được Đức Giêsu đặt ra cho những kẻ chất vấn về quyền của Người, cụ thể là quyền thanh tẩy Đền Thờ. Họ phải trả lời Phép Rửa Gioan Tẩy Giả do đâu mà có, do Trời hay do người ta, nhưng họ đã không trả lời được (x. Mt 21, 25). Theo lời của Đức Giêsu, có hai lối đáp trả trước lời rao giảng của Gioan: “Toàn dân, kể cả những người thu thuế đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Công Chính và chịu Phép Rửa của ông, còn những người Pharisêu và các nhà thông luật thì từ chối ý định của Thiên Chúa về họ và không chịu Phép Rửa của ông” (Lc 7,29-30).
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
https://josephpham-horizon.blogspot.com/2021/12/tu-phep-rua-hoan-cai-en-on-cuu-o-chu.html (cập nhật ngày 10/12/2024)
---Còn tiếp---
[1] R.E. Brown chia Tin Mừng Luca thành tám phần: Phần I: Lời Tựa (Lc 1,1-4); Phần II: Giới Thiệu: Thơ Ấu và Niên Thiếu của Đức Giêsu (1,5 – 2,52); Phần III: Chuẩn bị cho sứ vụ công khai (3,1 – 4,13); Phần V: Sứ vụ tại Galilaios (4,14 – 9,50); Phần VI: Hành trình lên Giêrusalem (9,51 – 19,27); Phần VII: Sứ vụ tại Giêrusalem (9,28 – 21,38); Phần VIII: Bữa tối cuối cùng, thương khó, chết, và chôn (22,1 – 23,56); Phần IX: Sống lại, hiện ra tại vùng Giêrusalem (24,1-53) [R.E. Brown, An Introduction to The New Testament (AnB; Newhaven – London 1997 ) 226].
[2] J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids, 1997) 161.
[3] J. Nolland, Luke 1:1-9:20 (WBC; Dallas 2002) XXXVA, 139.
[4] Xem thêm về Pontius Pilatos trong J.P.D. Thạch, “Một Vị Vua Chịu Thẩm Vấn. Chú Giải Tin Mừng CN XXXIV TNB” [LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: MỘT VỊ VUA CHỊU THẨM VẤN. Chú Giải Tin Mừng CN XXXIV TN B (Ga 18,33-37) (josephpham-horizon.blogspot.com)].
[5] F. Bovon – H. Koester, Luke 1. A commentary on the Gospel of Luke 1:1–9:50 (Hermeneia; Minneapolis) 120.
[6] X. R.E. Brown, An Introduction to The New Testament (AnB; Newhaven – London 1997) xix-xxii.
[7] “It is just possible (following Schürmann, 149, 151) that Luke follos the usage of a group that refused to acknowledge the deposition of Annas, and that we should translate, “in the time of the high priest Annas, and of Caiaphas” (J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 140).
[8] F. Bovon – H. Koester, Luke 1: a commentary on the Gospel of Luke 1:1–9:50, 120; “Almost nothing is known of Lysanias, who reigned over Abilene, located to the north of the Sea of Galilee, from ca. 28 c.e. to ca. 29–37. Clearly these two could not have been added to the list because of a Lukan concern with geographical inclusiveness” (J.B. Green, The Gospel of Luke, 169).
[9] F. Bovon – H. Koester, Luke 1: a commentary on the Gospel of Luke 1:1–9:50, 121.
[10] Mc 1, 4: “Ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu Phép Rửa của lòng hoán cải, để được ơn tha tội”; Mt 3,1: “Hồi ấy ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđaia rằng: ‘anh chị em hãy hoán cải vì Nước Trời đã đến gần’”.
[11] F. Bovon – H. Koester, Luke 1: a commentary on the Gospel of Luke 1:1–9:50, 121.
[12] A.Y. COLLINS – H.W. ATTRIDGE, A Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 140-141.
[13] J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids, 1997) 164.
[14] J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids, 1997) 165.
[15] J.P.D. Thạch, “Khởi đầu Tin Vui của Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa”, [LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: KHỞI ĐẦU TIN VUI CỦA ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ CON THIÊN CHÚA (josephpham-horizon.blogspot.com)].