Ngày tháng: 22/12/2024
Đang truy cập: 70

TU TỪ HỌC - Phần 2/2 - Lm. Paul Ngô Đình Sĩ

TU TỪ HỌC - Phần 2/2

Lm. Paul Ngô Đình Sĩ

-----------------------------

 

II. Tu từ học Hy lạp La mã và diễn giải Kinh thánh

1. Thư Phao-lô và phương pháp tu từ

Sau các nghiên cứu của chuyên gia Kinh thánh G. A. KENNEDY[8], nhiều nhà chú giải trên thế giới bắt đầu chú ý đến phương pháp Tu từ học để chú giải các thư của thánh Phaolô. Các thư của ngài cho chúng ta thấy kỹ năng thuyết phục và minh chứng về sự thật thần học của ngài, nhất là hai lá thư bàn về sự công chính hóa không do lề luật và do chính Thiên Chúa qua con đường của Đức Kitô, con Thiên Chúa.

Ở đây để nắm được việc áp dụng phương pháp này, chúng ta cho một ví dụ tổng quát cách đọc Thư gởi tín hữu Roma theo phương pháp Tu từ học.

Như chúng ta đã biết, thánh Phaolô đã thành lập nhiều cộng đoàn Kitô hữu xung quanh vùng Địa Trung Hải, và để giữ liên lạc, ngài thường viết thư cho họ. Nhiều nhà chú giải cho rằng phải nghiên cứu thư của thánh Phaolô theo cách viết thư thời đó hơn là theo mô hình Tu từ học. [9]

Thực ra, thánh Phaolô cũng theo các nguyên tắc viết thư vào thời đó, chẳng hạn, trong Thư gởi tín hữu Roma, ngài luôn tôn trọng cấu trúc của lá thư: phần mở đầu (giới thiệu và địa chỉ người nhận, adresse), Rm 1,1-7,  một lời chào kết thúc, phần này tiếng La tinh gọi là postscriptum Rm 15,33. Thánh Phaolô cũng viết một phân đoạn tạ ơn (Rm 1,8-15)[10]; ngài chia sẽ tin tức (Rm 15,17-32) và gởi lời chào hỏi đến những người quen biết (Rm 16). Lá thư của ngài luôn giữ một tâm tình huynh đệ với việc bày tỏ các ước muốn, những yêu cầu và khích lệ (Rm 12-15).

Tuy vậy, các nhà chú giải nhận ra rằng, thánh Phaolô cũng áp dụng kỹ năng diễn thuyết của Tu từ học Hy lạp - La mã, trong các phân đoạn khác nhau[11]. Từ thư gởi tín hữu Rôma đến thư cho Philêmôn, nội dung dài ngắn tuỳ theo độc giả và đề tài ngài đề cập. Trong hai thư gởi tín hữu Côrintô (Cr 1 et 2), có nhiều phân đoạn có tính cách diễn văn.

Hai lá thư quan trọng gởi tính hữu Galát và sau đó tín hữu La mã, với một chủ đề tương tự, chứa đựng những biện luận Tu từ học[12]. Hơn nữa chúng ta cũng biết rằng, khi thư của ngài đến cộng đoàn, người ta sẽ đọc to trước mặt các tín hữu như một diễn văn, chính ngài đã cho chúng ta biết điều này trong thư gởi tín hữu Thêxalônica: Nhân danh Chúa, tôi yêu cầu đọc thư này cho tất cả các anh em" (1 Th 5,5,27).

2. Thảo luận

Các nhà chú giải hiện nay đã nghiên cứu các thư của thánh Phaolô theo phương pháp Tu từ học, nhất là Thư gởi tín hữu Roma. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều nghiên cứu được biết đến trong cuốn The Romans Debate: năm 1976, để trả lời cho Donfried và  Karris[13], Wilhelm Wuellner đề nghị nghiên cứu Thư gởi tín hữu Roma với Tu từ học cổ điển cũng như hiện đại (Perelman-Olbrechts-Tyteca). Ông Karris xem phân đoạn Rm 1,1-15 như là exordium, một mở đầu. Ông cũng biện luận rằng thư gởi tín hữu La mã là một loại diễn văn minh chứng[14]. Và sau đây là cấu trúc Tu từ học của lá thư theo nghiên cứu của Karris: Exordium (mở đầu), 1,1-15; Transitus (giao tiếp) 1,16-17; Confirmatio (luận cứ) 1,18-15,13; Peroratio (kết luận), 15,14-16,23.

Năm 1986, đồng ý với những đề nghị của Wuellner và dựa trên nghiên cứu của Burgess[15], Robert Jewett  cho rằng Thư gởi tín hữu Roma như là một lá thư ngoại giao (an Ambassadorial Letter) thuộc loại minh chứng.[16]

Năm 1991, Robert Jewett  trở lại với nghiên cứu của ông và đưa vào những từ mới liên quan đến các chứng cứ: Exordium - 1,1-12; Narratio - 1,13-15; Propositio: - 1,16-17; Probatio -1,18-15,13; Peroratio - 15,14-16,23. Ông thêm vào phân đoạn narratio và thay thế từ confirmatio bằng chữ probatio, một từ ngữ cổ điển mà theo ông chỉ định phần chính của diễn văn (luận đề). Còn chữ confirmatio, chính là các phân đoạn biện luận cho luận đề.[17]

Nhưng những ví dụ mà chúng ta vừa thấy, các chú giải đã quá theo sát phương pháp Tu từ học Hy lạp và La mã, rất kinh điển và cứng nhắc. Họ giới hạn các phân đoạn Tu từ học và tìm gán cho nó một trong ba thể loại Tu từ học như chúng ta đã nói trên đây: pháp lý (judiciaire), thảo luận (délibératif) và minh chứng (épidictique), và cuối cùng nghiên cứu dispositio bố cục của bản văn.  Từ thời cổ đại đến nay, chứng ta ai cũng vậy, tuy học hỏi những phương pháp cách thức kinh điển ở trường lớp, nhưng mỗi áp dụng thể hiện được tự do và sáng tạo của tác giả (văn chương, hội họa hay chính trị tôn giáo). 

Chúng ta biết con người tự do của thánh Phaolô, kỹ luật nhưng không gò bó. Khi viết thư cho các cộng đoàn, điều quan tâm của ngài là truyền đạt đức tin và sự gắn kết của ngài với Tin Mừng Đức Kitô. Chính vì lòng tin mạnh mẽ đó, mà ngài dùng tất cả tự do trong phương tiện cũng như trong tư tưởng để truyền đạt. Như thế, chúng ta phải hiểu rằng, tuy các bản văn của ngài thể hiện lối Tu từ học Hy lạp và La mã, nhưng ngài cũng không sử dụng các yếu tố này một cách cứng nhắc.

3. Propositio

Để tránh những sai lầm đáng tiếc trong khi dùng lối tiếp cận Tu từ học để nghiên cứu các thư của thánh Phaolô, Aletti[18], giáo sư dòng Tên người Pháp, học ở Pháp, nhưng được mời dạy ở Học viện Kinh thánh Roma, cũng như nhà nghiên cứu Kinh thánh người Hoa kỳ Murphy O’Connor[19] nhấn mạnh về quan trọng của propositio, tức "luận đề" của diễn văn.

Thực vậy, Aristote, ông tổ của Tu từ học Hy lạp không đòi hỏi khác hơn là chú trọng đến hai phần chính, được tạm dịch như sau: "trong diễn văn có hai phần, vì cần thiết phải nói lên được chủ đề và minh chứng. Hệ quả là, không thể không minh chứng khi chủ đề đã được nêu ra, hoặc minh chứng trước khi chủ đề được trình bày;... Từ hai phần này, một là propositio (luận đề); một là confirmation (minh chứng), như thể là người ta phân biệt một mặt là đặt vấn đề, và mặt khác là chứng minh."[20]

4. Thư Ro-ma

Nói cách khác, trong Thư gởi tín hữu Roma, mỗi đơn vị biện chứng theo một luận đề đã được thánh Phaolô đưa ra (propositio). Và ngài phát triển những lý luận, xác định rõ tư tưởng của ngài, và giải thích các lời nói hay chỉnh huấn lại lý lẽ của ngài. Chẳng hạn, chúng ta có những biện chứng khác khau như khi thánh Phaolô đưa ra như những ví dụ Rm 7,1-4, những tam đoạn luận Rm 6,5-10 (enthymèmes), những nguyên tắc Rm 2,6. 11, hoặc các trích dẫn Kinh thánh Rm 3,10-18.

Vậy đâu là bố cục của Rm trong phương pháp phân tích Tu từ học? Các nhà chú giải hiện nay, đều đống ý rằng Rm 1,16-17luận đề chính của lá thư.  Aletti đã đề nghị cho chúng ta một cấu trúc của Thư gởi tín hữu Roma như sau[21]:

     Thư chỉ (Adresse) 1,1-7

     Ngỏ lời (Exorde) 1,8-17,

     dẫn đến luận đề chính (propositio) 1,16-17

     I (A) 1,18-4,25: người Do thái hay Hy lạp, được công chính hóa chỉ bởi đức tin

     (B) 5-8: đời sống mới và niềm hy vọng của những người được công chính hóa

     II 9-11: Ít-ra-en và các dân tộc (tương lai của Ítraen)

     Huấn dụ (Exhortations) 12,1-15,13;

     Đoạn kết (Péroraison) 15,14-21;

     Tin tức và lời chào cuối 15,22-33 + 16,1-27

Trong Thư gởi tín hữu Roma, nhiều nhà chú giải phân vân việc phân đoạn giữa chương 4 và bước sang chương 5. Chương này đóng vai trò gì trong toàn bộ luận chứng của thư?[22]  Theo Aletti, các  chuẩn điểm từ ngữ cũng như thần học không đủ để xác định và giới hạn chương 5[23]; nhờ cấu trúc Tu từ học chúng ta mới có thể đi đến quyết định: Rm 5 không thể là đoạn kết (peroratio) của Rm 1,18-4,25, tạo thành một khối rõ rằng và vững chắc[24], vì nó quá dài so với một kết luận và không chứa đựng những tóm tắt các chủ đề vừa nói và hơn nữa, có các luận đề phục trong phân đoạn này (sub-propositiones): Rm 5,20-21. luận đề phụ này được mở ngỏ bởi Rm 5,1-11 (transition et introduction), và Rm 5,12-19 (expositio, sygkrisis Adam/Christ) trình bày so sánh tương quan giũa Adam và Đức Kitô.[25]

Như thế theo cấu trúc Tu từ học này, luận đề chính propositio Rm 1,16-17 làm phát triển các luận chứng  trong phần Rm 1,18-15,13 (probatio). Tuy vậy, trong phần luận chứng này, chúng ta còn có nhiều luận đề điều khiển các đơn vị luận chứng tuân theo các nguyên tắc của phương pháp Tu từ học Hy lạp và La mã.

------------------------------

-Ghi chú-

[8] KENNEDY, The Art of Persuasion, 1963 ; "The Rhetoric of Advocacy", tr. 419-436 ; The Art of Rhetoric, 1972 ; Greek Rhetoric, 1983 ; New Testament Interpretation, 1984.

[9] DOTY, Letters, 1973 ; WHITE, "New Testament Epistolary Literature", 1984 ; AUNE, "Romans", 1991, tr. 278-296.

[10] MURPHY-O’CONNOR, Paul et l’art épistolaire, tr. 94.

[11] Trong The Romans Debate, (DONFRIED [éd]), nhiều nghiên cứu được làm trong viễn cảnh thư tín : STIREWALT (tr. l147-171), AUNE (tr. 278-296).

[12] ALETTI, "Paul et la Rhétorique", tr. 38.

[13] DONFRIED, "False Presuppositions", tr.  102-125 ; KARRIS, "Romans 14:1-15:13", tr. 65-84.

[14] WUELLNER, "Paul’s rhetoric", tr. 133-134.

[15] BURGESS, "Epideictic Literature", tr.  89-261.

[16] JEWETT, "Following", tr.  266.

[17] JEWETT, "Following", tr.  272-273.

[18] ALETTI, Comment Dieu est-il juste ?, tr.  34.

[19] MURPHY O’CONNOR, Paul et l’art épistolaire, tr.  126.

[20] "il n’y a dans le discours que deux parties, car il est nécessaire de dire quel est le sujet, et le démontrer. Il est, par conséquent, impossible, une fois qu’on l’a exposé, de ne pas le démontrer, ou de le démontrer sans l’avoir préalablement exposé ;... De ces deux parties, l’une est la proposition ; l’autre, la confirmation, tout comme si l’on distinguait d’une part le problème, d’autre part la démonstration" ARISTOTE, Rhétorique, III, 13, 1414a, 31-36.

[21] ALETTI, Israël et la Loi, tr.  32.

[22] Les exégètes se divisent sur la place de Rm 5 : 1) Rm 5,1-21 là đoạn kết của phân đoạn Rm 1-5 ; 2) Rm 5,1-21 khởi đầu một phân đoạn (Rm 5-8) ; 3) Rm 5,1-11 kết Rm 1-4 và Rm 5,12-21 mở Rm 6-8. ALETTI, "La présence d’un modèle rhétorique", tr.  17.

[23] ALETTI, Comment Dieu est-il juste ? tr.  38-49.

[24] ALETTI, "Rm 1,18-3,20", tr.  47-62.

[25] ALETTI, Israël et la Loi, tr.  15-28.

zalo
zalo