Ngày tháng: 21/12/2024
Đang truy cập: 67

Tương Quan Giữa Triết Học Và Thần Học - Phần 1/2 - Joseph Tân Nguyễn, Ofm

TƯƠNG QUAN GIỮA TRIẾT HỌC VÀ THẦN HỌC - Phần 1/2

Joseph Tân Nguyễn, Ofm

NO PHOTO​​​​​​​

Tương quan giữa triết học và thần học là một đề tài được nghiên cứu rộng rãi từ nhiều góc độ khác nhau, bắt đầu từ giữa thế kỷ trước. Song song với hiện tượng này là sự nở rộ của các trường phái thần học mới như thần học tiên nghiệm, thần học giải thích, thần học phân tích, thần học tương quan liên đới, thần học phụ nữ, các hình thức thần học giải phóng và thần học chính trị, v.v. Khi thần học gia có nhu cầu cập nhật các vấn đề liên quan đến niềm tin tôn giáo, họ đã không ngần ngại vay mượn các phạm trù tri thức từ triết hiện sinh, hiện tượng luận, triết ngôn ngữ, triết phê phán xã hội, v.v. để khai triển các nền tảng thần học thích ứng hơn cho niềm tin tôn giáo trong bối cảnh xã hội của họ. Vì tôn giáo là yếu tố căn bản và sinh lực cho hạnh phúc xã hội cho nên sự tồn tại và phát triển của niềm tin tôn giáo là trọng tâm cho sự kết nối giữa triết học và thần học. Nhưng mọi nổ lực kết nối giữa thần học và triết học trong bối cảnh đa dạng hiện nay đều giả định một lý thuyết hậu cảnh nào đó vốn bao gồm các trò chơi ngôn ngữ triết học, thần học và tôn giáo học chồng chéo với nhau. Do đó cần phải phân biệt rõ hơn phạm vi và chức năng của mỗi truyền thống.

Tuy tiến trình nghiên cứu về tương quan triết-thần cách hàm lâm còn trẻ trung, nhưng sự tương tác giữa hai phạm vi triết học và thần học thì đã có ngay từ lúc khởi đầu của suy tư thần học ở Tây Phương. Một khi chúng ta dùng phạm trù tri thức nào đó để lý giải hay khai triển một khái niệm thần học (soạn bài giảng), thì chúng ta đang công nhận có sự tương quan này. Vì thế, chủ đề tương quan triết-thần thì rất bao la, cuốn sách này sẽ giới hạn vào các phạm vi nghiên cứu sau đây.  Trước tiên, chúng ta sẽ phân tích phạm vi của các ngành tôn giáo, triết học và thần học và sơ lược qua các mô hình nổi bật trong lịch sử của sự giao thoa này.  Sau đó chúng ta sẽ khai triển cách thần học dùng triết học ở mỗi giai đoạn sau đây: (1) Giáo hội sơ khai dùng triết học Hy-lạp để biện minh cho sự tồn tại của mình; (2) Augustine, Boethius, Anselmô dùng triết học để lý giải cho hành trình tức tin tìm kiếm tri thức; (3) Abelardo, Tôma và Bonaventura tìm nền tảng khoa học cho thần học thời Kinh Viện; (4) Scotus và Ockham phân tích sự khác biệt giữa triết học và thần học; (5) thần học Tân Kinh viện và thần học Cải Cách đối lập nhau trong phương pháp suy tư; (6) tính đa dạng của phương pháp thần học sau Vatican II.  Phần kết, chúng ta sẽ quan sát cách cụ thể về mối tương quan giữa ngôn ngữ văn hóa và ngôn ngữ tôn giáo trong bối cảnh truyền giáo ở Việt Nam.

Nếu thần học (theologos) bao gồm “logos” về “theos”, tức là ngôn ngữ hay lý lẽ về Thiên Chúa, thì hy vọng môn tương quan triết-thần sẽ cho chúng ta thấy lý trí con người dưới ánh sáng của đức tin đã tạo ra những trò chơi ngôn ngữ rất sáng tạo và đặc thù hầu đáp ứng nhu cầu nói về Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh xã hội.

Tôn giáo, triết học, thần học

Phạm vi của tôn giáo thì rất bao la, hàm chứa tất cả những gì có liên quan đến thực tại và hạnh phúc tối hậu mà con người đang tìm kiếm. Truyền thống tôn giáo xuất phát từ lối sống và các bản văn “kinh điển” của cộng đoàn với mục đích giải quyết các mối ưu tư, niềm an ủi và hy vọng của con người. Tôn giáo có nguồn năng lực không bao giờ cạn kiệt đến từ “mythos” (thần thoại), tức là chiều kích huyền nhiệm của cuộc sống. Chính nền tảng “mythos” đã cung cấp cho tôn giáo một loại ngôn ngữ khá bền vững và sáng tạo về bản chất của vũ trụ và thần thánh, nguồn gốc, vận mệnh và cứu cánh của con người. Trình thuật “thần thoại” dùng ngôn ngữ biểu tượng vốn có khả năng tác động sâu đậm lên tâm linh (psyche), lối sống (ethos) và giá trị đạo đức (mores) của những tín đồ tôn giáo.

Ngoài ra, niềm tin tôn giáo có khả năng mở rộng chân trời hiểu biết của con người vốn đang sống trong thế giới “bên này” nhưng lại có cảm thức về những gì thuộc về thế giới “bên kia.” Do đó, qua tôn giáo chúng ta có thể nhận ra tiềm năng và chiều sâu lẫn chiều rộng của những khát vọng sâu thẳm của con người. Tôn giáo tồn tại để nhắc nhở chúng ta rằng thực tại không chỉ về cái “là” mà còn cả cái “sẽ là”.  Tôn giáo bảo vệ chiều kích siêu việt của cuộc sống bằng cách cố gắng trả lời các câu hỏi: Làm thế nào con người sống trong thế giới trần tục này có thể chạm đến chiều sâu thánh thiêng của hiện hữu?  Nên dùng ngôn ngữ nào để nói về Đấng Tối Cao và bên ngoài mọi giới hạn?  Vũ trụ chỉ là một hiện tượng ngẫu nhiên hay có mục đích và ý nghĩa gì chăng? Thân phận con người sẽ là gì trong một vũ trụ bao la hầu như vô hạn? 

Để trả lời các vấn nạn này tôn giáo mời gọi con người dấn thân và phó thác, hành động và dùng ngôn ngữ như thể chúng ta đang “cư ngụ” trong thế giới của niềm tin. Tin là biết cách “cư ngụ”, tức là dùng ngôn ngữ, hành động, lối giải thích cho phù hợp với các giá trị văn hóa và đạo đức của tôn giáo. Có như thế thì con người mới nắm bắt và kết hiệp với những gì được xem là thánh thiêng và huyền nhiệm.  Ngôn ngữ và biểu tượng tôn giáo phải quy theo chiều hướng siêu việt, hầu để tránh các ảo ảnh của thần tượng hoặc ngẫu tượng. Qua các nỗ lực này, tôn giáo muốn lưu truyền lại “chân lý” được lãnh nhận. Tôn giáo không muốn bị sai lầm trong sứ mệnh hướng dẫn con người tìm hạnh phúc tối hậu, vì thế tôn giáo cần liên tục phê phán và tự sửa sai ngôn ngữ và quan điểm của chính mình. Từ đó, lý giải về niềm tin tôn giáo cũng sẽ dần dần mở rộng, bao gồm các phạm trù đến từ triết học, văn hóa và bối cảnh xã hội.

Truyền thống triết học cũng tìm hiểu căn nguyên của tri thức và tâm linh con người nhưng lại bắt đầu từ nền tảng suy tư phê phán của nền văn minh Hy-lạp Cổ đại. Đối với các triết gia tiền Socrates, minh triết là sự từ bỏ con đường “mythos” của các thi sĩ Hy-lạp trước đó (Homer, Hesiod) để theo đuổi “logos,” vốn là sợi dây kết nối giữa lý trí và vũ trụ. Các cuộc hội thoại và tranh luận về vấn đề đạo đức của Plato là những ví dụ cụ thể cho thấy lý trí (logos) đang thay thế thẩm quyền của thần thánh. Từ đó, triết học tây phương được hiểu như là hành trình đam mê hay yêu mến sự khôn ngoan (philo-sophis). Trên hành trình đó, lý trí đóng vai điều phối trong sứ mệnh tìm kiếm hạnh phúc tối hậu cho con người. Trong khi tôn giáo kết nối linh hồn với thân xác, cảm xúc với tư duy như là một tổng thể của sự sống thì triết học nhìn con người qua góc độ của lý tính. Từ thời cổ đại, triết học đã có khuynh hướng tách biệt lý trí ra khỏi thân xác như là hai bản thể riêng biệt. Plato đồng nghĩa hồn với chiều kích siêu nghiệm của lý trí vốn xuất phát từ thế giới Ý Niệm. Qua những chức năng của hồn, vốn đã tồn tại trong thế giới Ý Niệm trước khi nhập vào thân xác, con người có thể đạt đến mục tiêu tối cao của mình. Lý trí con người không chỉ bất tử mà còn có khả năng biện phân những thực tại bất biến và vĩnh hằng vượt trên các định kiến tôn giáo.

Từ khả năng tách biệt lý trí ra khỏi thân xác và cảm xúc, triết học Tây Phương xoáy sâu về “bản chất” của thực tại, sự nhận thức về chân lý và hạnh phúc tối hậu của con người, và cả tiến trình suy diễn của lý trí. Khuynh hướng tách biệt triết học ra khỏi tôn giáo chính là sự khác biệt căn bản giữa Đông phương và Tây phương. Ở Đông Phương, ranh giới giữa triết học và tôn giáo còn mơ hồ; “logos” và “mythos” vẫn còn đan quyện với nhau. Khổng giáo là một triết lý, nhưng Khổng giáo không nghiên cứu về thần thánh mà về “đạo làm người”. Trong khi đó Lão giáo nghiên cứu “Đạo” như là nguyên lý của trời đất và nhân sinh--căn nguyên của mọi sự vô hình và hữu hình—tương tự như “arche” trong truyền thống Vũ Trụ Luận ở Tây phương.  Vì khả năng tách biệt triết lý ra khỏi tôn giáo, triết học Tây phương thường được hiểu như một tiến trình hoán cải tri thức liên tục, cố gắng vạch trần các yếu tố tha hóa đang tiềm tàng trong chiều hướng phát triển, phương pháp suy tư và những giả định của triết học. Khoảng cách giữa lý trí và niềm tin tôn giáo đã giúp triết học tiến xa và khai triển các phạm trù tư duy rất sáng tạo và hữu dụng trong thần học sau này.  Nhưng truyền thống triết học phải dừng chân nơi các giới hạn mà lý trí tự đặt ra cho mình.

Cuối cùng, một khi sự lý giải về niềm tin tôn giáo trở thành hệ thống và có khả năng giải quyết các vấn nạn tối hậu của con người thì chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa thần học. Thần học dựa trên nền tảng mạc khải, nhưng nó dùng các phương pháp suy tư phê phán của triết học để chú giải và khai triển những huyền thoại của tôn giáo. Vì thần học muốn kết nối “mạc khải” với “lý trí” cho nên sứ mệnh của thần học mang tính nước đôi: vừa tìm hiểu nội dung của đức tin (mythos, mạc khải) nhưng lại dùng phương pháp phê phán của triết học (logos, lý trí). Do đó có thể hiểu thần học là “đức tin tìm kiếm sự hiểu biết” (Fides quaerens intellectum).  Nhờ vào bản tính nước đôi này mà tiến trình suy tư thần học (theo-logos) có thể tránh được những hố sâu của duy tín. 

Như thế sự khác biệt giữa triết học và thần học là ở nơi phương cách mỗi truyền thống tiếp cận tôn giáo. Trong khi triết học muốn thẩm tra tính hợp lý của niềm tin tôn giáo thì thần học chấp nhận quan điểm và chân lý của tôn giáo như là nền tảng căn bản cho lý luận của mình.  Mục đích của thần học là tìm hiểu nội dung của những gì tôn giáo đón nhận qua mặc khải. Thần học cố gắng tránh rơi vào não trạng chủ quan qua cách nó kết nối niềm tin tôn giáo với các mô hình tri thức của bối cảnh văn hóa. Trong khi lý giải cho tính hợp lý của niềm tin tôn giáo, thần học rút tỉa “nội dung” từ mạc khải, nhưng “hình thức” thì vay mượn từ các phạm trù triết học. Là một hoạt động tri thức, thần học luôn giữ cho nội dung của đức tin được cập nhật và sống động chứ không như những “bảo vật” cổ kính trong bảo tàng lịch sử của tư duy.  Khi lối suy tư cũ không còn thích ứng cho bối cảnh xã hội nữa thì phương pháp thần học mới ra đời.  Như thế, thần học thì luôn mở rộng và hướng về chân trời vô hạn của đức tin và mạc khải.

Nếu phải dùng hình ảnh để diễn tả mối tương quan triết-thần qua lịch sử thì thiết nghĩ đây là một cuộc tình trắc trở giữa hai tình nhân rất khác biệt (Jerusalem và Athens). Họ bắt đầu gặp nhau giữa những cơn sóng gió của lịch sử xuất phát tử những áp lực từ bên ngoài (bắt đạo) lẫn bên trong (các nhóm lạc giáo). Cuộc tình duyên này đã được các bậc tiền bối của cả hai truyền thống chúc lành (Platô, Plotinus).  Mối tình này trải dài từ những lôi cuốn ban đầu (Philo, Origen) cho đến sự tương tác giữa tri thức và khôn ngoan (Augustinô, Anselmô), và đạt đến đỉnh cao hài hòa và hầu như bất khả phân ly trong thời Kinh Viện (Tôma, Bonaventura).  Sau một thời gian chung sống hạnh phúc, họ đã cho ra đời những đứa con (ý niệm phổ quát, khoa học thánh, tri thức luận khả niệm, thuyết duy thực, thuyết duy danh). Nhưng một khi con cái lớn lên thì cuộc hôn nhân này càng ngày càng trắc trở và cuối cùng đưa đến sự phân ly tách biệt giữa thần học và triết học (Scotus, Ockham).

Cho dù sống tách biệt (thời Khai Sáng), cả triết học lẫn thần học vẫn tiếp tục luyến tiếc quá khứ và vẫn nói về nhau qua những phạm trù mới như “thực hành luân lý” (Kant), “tiến trình biện chứng của tư duy” (Hegel), hay “cảm xúc lệ thuộc tuyệt đối” (Schleiermacher).  Các nỗ lực xây dựng hệ thống thông diễn triết-thần này đã mở đường cho những hướng đi mới rất sáng tạo nhưng vẫn không tránh khỏi bị phê phán về những khía cạnh tha hóa của tôn giáo (Feuerback, Marx, Freud). Mặc khác, những cách giải thích tôn giáo theo khuynh hướng thế tục vẫn không hoàn toàn rủ bỏ mối ưu tư tối hậu của con người vốn có căn nguyên từ tôn giáo (Kierkergard, Nietzsche). Hiện nay, thần học và triết học không còn chung sống nhưng cả hai vẫn thao thức, không muốn để tôn giáo bị xóa tên trên bản đồ tri thức (Heidegger), hay bị tha hóa bởi những quyển lực xã hội (Weber), hay bị bế tắc bởi các vấn đề ngôn ngữ (Wittgenstein). Trong các chương kế tiếp chúng ta sẽ lắp chi tiết vào các khung lịch sử sơ lược trên đây.

Tương Quan Triết - Thần qua lịch sử

Mối tương quan giữa triết học và thần học sẽ bị chi phối bởi nhu cầu kết nối đức tin với bối cảnh xã hội trong mỗi giai đoạn. Giáo hội sơ khai và các Giáo phụ, Kinh Viện, Cận đại, và Hiện đại. Chúng ta sẽ sơ qua năm nhu cầu tiêu biểu là (1) diễn giải niềm tin Kitô giáo trong bối cảnh Giáo hội sơ khai; (2) dùng triết học để khai triển tri thức về Thiên Chúa ở giai đoạn khởi đầu của Trung Cổ;  (3) kết nối đức tin với lý trí để bảo đảm tính khoa học của thần học ở Kinh Viện; (4) hai cách dùng triết học đối lập nhau thời Phục Hưng và Cận đại; (5) dùng các triết học làm nền tảng cho các phương pháp thần học thời Hiện đại. Ở mỗi giai đoạn, mối tương quan giữa triết học và thần học sẽ mang một bản sắc đặc thù, từ hoài nghi đến hổ tương, từ đối tác đến công cụ, từ hài hòa đến kết hợp, từ phê phán đến tách biệt, và cuối cùng từ đối lập đến đa dạng.

GIÁO HỘI SƠ KHAI: HOÀI NGHI ĐẾN HỔ TƯƠNG

Khởi đầu, thần học có sự tương quan với triết học là vì giáo hội sơ khai cần giải thích “biến cố Kitô” cho nhu cầu truyền giáo. Phần triết học, sau khi thoát thai từ hình thức tư duy “mythos”, trải qua những bước khai triển của Vũ trụ luận, triết Hy-lạp được trang bị với tinh thần phê phán của “logos” (Socrates, Platô, Aristote). Trường phái “Stoic” khai triển con đường của đức hạnh, tự kiềm chế nhu cầu bản thân, và sự quan phòng của Thượng đế.  Trong lúc đó, trường phái Tân-Platô khai triển con đường thần bí, tìm cách giải quyết mối tương quan giữa “Cái Một” và thế giới, sự bất tử của hồn con người và nguồn gốc thần linh của vũ trụ. Hai trường phái này đã để lại ảnh hưởng sâu đậm lên việc suy tư thần học Kitô giáo.

Tuy nhiên hành trình tiếp thu triết học Hy-lạp vào thần học đã không hoàn toàn suông sẻ ngay từ ban đầu.  Là một thiểu số non trẻ, Kitô giáo phải tìm cách khẳng định căn tính của mình giữa hai “đại thụ”, một bên là truyền thống tôn giáo Do Thái-Palestine và một bên là nền văn minh triết lý cổ đại Hy-lạp. Phản ứng của giáo hội sơ khai về triết lý Hy-lạp thì đa dạng. Thánh Phaolô cho rằng sự khôn ngoan mà các triết gia Hy-lạp tìm kiếm chỉ là thế tục và ngoại lai. Nhưng Tin Mừng Gioan không ngần ngại dùng khái niệm “logos” của triết Hy-lạp để thiết lập nền tảng cho thần học nhập thể của mình. Câu nói bất hủ của Tertulian “Athens có liên hệ gì đến Jerusalem?” đánh dấu cao điểm của thái độ hoài nghi của Kitô giáo đối với truyền thống triết Hy lạp. Nhưng một khi giáo hội bị lôi cuốn vào tranh luận với các quan điểm Kitô giáo quá khích (Pelagianism, Gnosticism) thì thần học bắt đầu trở thành một loại “Biện-giáo” (apologetics). Tuy mục đích của thần học lúc này là biện hộ cho lối sống Kitô giáo nhưng đôi khi rơi vảo tư thế phòng thủ (Irenaeus, Marcion, Valerius), và tách biệt (Montainism). Từ các cuộc tranh luận về thẩm quyền trong giáo hội, giữa “ngôn sứ” và hàng “giám mục,” cơ cấu tổ chức và sứ vụ của giáo hội sơ khai bắt đầu xuất hiện. Và một cách tiệm tiến, các mô hình triết học của Plato và Tân-Plato đã được tận dụng làm nền tảng lý luận cho thần học.

Đến các thế kỷ thứ IV thì nhu cầu biện hộ cho Kitô giáo không còn nữa, thay thế vào đó là nhu cầu hòa giải giữa các trường phái thần học và khẳng định đâu là nền tảng “chính thống” cho đức tin Kitô giáo.  Các giáo phụ đã phải dung hòa sự khác biệt giữa các cách chú giải Kinh Thánh của trường phái Alexandira (Clement, Origen) và trường phái Antioch (John Chrysostom).  Từ đó, giáo hội có nhu cầu tạo nền tảng siêu hình cho cách lý giải về các vấn đề căn bản của đức tin như: nhân tính và thần tính của Đức Kitô, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, tạo dựng, cánh chung, nhập thể và cứu độ. Ở giai đoạn này, sự đối đầu giữa triết học và thần học không còn nữa. Phương cách Biện-giáo (apologetics) được thay thế bằng những cuộc tranh luận và giải hòa tại các Công Đồng Chung (Nicea, Constinople, Ephesus va Chalcedon). Mục đích của các Công Đồng là thiết lập sự thống nhất về nội dung của mạc khải một khi Kitô giáo được tự do rao giảng trong Đế quốc La-mã, khi mà “khán giả” của thần học trở nên đa dạng hơn.

Về phía triết học đã gần một kỷ nguyên kể từ khi Aristote đóng cửa nhà trường ở Athens (529 AD). Thay vì theo đuổi con đường “logos” và phương pháp thực nghiệm của Aristote thì triết học quay về con đường thần bí, nghiên cứu con số (Tân-Pythagorean) và dùng mô hình “phát tỏa” để giải thích thực tại (Plotinus).  Điều này cho thấy triết học chưa hoàn toàn gột bỏ được sự lôi cuốn của “mythos.”  Sau khi chế độ dân chủ của Athens sụp đổ, việc truy tầm triết học theo lối Hy-lạp cổ điển hầu như bị lãng quên, thay vào đó, vấn đề sinh và tồn cứu rỗi trở thành cấp bách hơn.  Qua nhiều thế kỷ trầm lặng dưới dạng thần bí, triết học được phục hồi với sứ mệnh đem lại niềm an ủi cho những tâm hồn bị bối rối (Boethius).

Nói chung, ảnh hưởng của triết học trên thần học ở giai đoạn giáo hội sơ khai và giáo phụ hầu hết đến từ Platô (siêu hình), Tân-Platô (tín lý) và Stoic (luân lý). Đóng góp quan trọng nhất của triết học là đã cung cấp các phạm trù tri thức và ngôn ngữ giúp khai triển và hệ thống hóa nền thần học Kitô giáo. Các phương pháp chú giải đa chiều cũng đã giúp giảm bớt “tính thần thoại” của Kinh Thánh và ngôn ngữ mạc khải và khai mở “tính hợp lý” của niềm tin Kitô giáo. Qua các sáng tác của Augustine, Boethius ở giai đoạn đầu và Anselmô và Abelarđo ở giai đoạn giữa thời Trung Cồ, triết học được tiếp thu và áp dụng như những nền tảng luận lý biện chứng cho thần học trở thành một loại tri thức thật sự.  Nhưng sự khai sáng thần học trở thành bộ môn học thuật chuyên biệt thì phải đợi đến giai đoạn Kinh Viện khi nổ lực tổng hợp triết-thần được đem ra tranh luận trong bối cảnh các đại học Trung Cổ.

---còn tiếp---

zalo
zalo