Ngày tháng: 21/12/2024
Đang truy cập: 69

Tương Quan Giữa Triết Học Và Thần Học - Phần 2/2 - Joseph Tân Nguyễn, Ofm

TƯƠNG QUAN GIỮA TRIẾT HỌC VÀ THẦN HỌC - Phần 2/2

Joseph Tân Nguyễn, Ofm

NO PHOTO

THỜI TRUNG CỔ: TỪ HÀI HÒA ĐẾN KẾT HỢP

Cuộc tình giữa triết học và thần học thuận buồm xuôi gió và triển nở nhanh chóng trong thời Trung cổ. Khởi đầu, tuy triết học là “nữ tỳ” và thần học là “bà hoàng” nhưng đến giai đoạn Kinh Viện, thì vai trò lý trí sẽ trở nên trọng yếu và độc lập hơn, nhiều khi chi phối cả ngôn ngữ và phạm trù thần học. Cũng từ sự vươn lên của lý trí ở giai đoạn này mà các chủ đề mới được phát sinh như việc dùng “ý niệm phổ quát” (the universals) đển thiết lập các “luận cứ” về sự tồn tại của Thiên Chúa, hoặc sự ra đời của “thần học tự nhiên” (natural theology) trong Kinh Viện. Sự tổng hợp triết thần trong Kinh Viện tuy rất sáng tạo nhưng cũng không tránh khỏi sự chi phối của triết học mà ở cuối thế kỷ 14 một số quan điểm của Kinh Viện đã bị lên án. Với phong trào Cải Cách và Phục Hưng thì sự tổng hợp triết-thần này không còn đứng vững nữa, phải nhường chỗ cho các tư duy mang tính khoa học và Phục Hưng. Một cách tổng quát, tương quan triết-thần thời Trung Cổ có thể chia ra hai giai đoạn. Giai đoạn đầu mang nặng ảnh hưởng của triết học Platô và Tân-Platô. Giai đoạn sau, sự tổng hợp triết-thần được xây dựng trên nền tảng triết lý của Aristotle được du nhập qua con đường văn hóa Ả-rập.

Thánh Augustinô, khởi đầu cho suy tư triết-thần Trung cổ, thú nhận rằng ngài đã được “tỉnh ngộ”. sau khi đọc Cicero và Plotinus. Augustinô khẳng định rằng con người gặp gỡ chân lý và cái đẹp tối cao không qua giác quan và thế giới bên ngoài nhưng bằng cách đi vào bên trong tâm hồn. Nơi đó, nhờ ánh sáng vĩnh cửu đang chiếu dọi bên trên lý trí, chúng ta mới có thể nhận ra các chân lý toán học và đạo đức học là tất yếu và vĩnh hằng, cùng với cái đẹp, hữu thể và sự thiện tối cao chính là Thiên Chúa. Toàn thể lịch sử con người được trình bày như là một lộ trình sự xuất phát và trở về với Thiên Chúa. Sự cứu rỗi chính là hành trình quay trở về nguồn gốc thuần túy của tạo dựng. Đây là mô hình “exitus-reditus” của Tân-Platô mà các thần học gia Kitô giáo Gregory of Nyssa, Mạo-Dionysius và Scotus Erigena dùng để giải thích vũ trụ là do sự phát tỏa từ “Cái Một” mà ra. Vài thế kỷ sau đó, Anselmô cũng áp dụng các nguyên tắc của biện chứng của lý trí để tạo ra một luận cứ bản thể luận cho sự tồn tại của Thiên Chúa. 

Ngoài ra, qua các sáng tác của những học giả Hồi giáo, phương pháp suy tư của Aristote được các triết gia tại các đại học Trung Cổ chú ý đến. Các học giả Kinh Viện chú tâm đến cách siêu hình học của Aristote phân biệt giữa bản chất và hiện hữu, nhất là các “luận cứ” về sự tồn tại của Thượng đế dựa trên nguyên nhân và cứu cánh của vũ trụ.  Từ đó, Aristote được gọi là “Triết gia” và Averroes là “nhà chú giải.” Một số học giả Kinh Viện muốn áp dụng triết học suy lý của Aristote để khai triển thần học tự nhiên (natural theology), một loại thần học độc lập khỏi mạc khải.  Một số thần học gia vẫn tiếp tục dùng mô hình nhị nguyên của Plato để khai triển thần học. Tuy vậy, vẫn có nhiều thái độ khác nhau trong thần học Kinh Viện: từ thiết lập sự tổng hợp triết-thần (Tôma), cho đến áp dụng triết học một cách phê phán (Bonaventure, Scotus) và cuối cùng là tách biệt triết học ra khỏi thần học (Ockham).

Ở cao điểm của Kinh Viện, các thần học gia tại Oxford (Grosseteste & Bacon) không chỉ tranh luận về nền tảng khoa học cho thần học mà còn lý luận rằng thần học phải trở thành một nền tảng khôn ngoan phổ quát và tri thức sâu sắc, có khả năng bao gồm mọi bộ môn khoa học. Tại Đại Học Paris, Tôma đón nhận chân lý bất cứ nơi nào miễn sao nó làm cho tư tưởng Kitô giáo trở nên phong phú hơn. Lý trí và đức tin không thể mâu thuẫn nhau vì cả hai xuất phát từ cùng một nguồn thần linh. Triết học tìm kiếm nguyên nhân đệ nhất của mọi sự vật, khởi đầu bằng dữ kiện thu thập bởi giác quan. Tôma nhận thấy trong triết học của Aristote khả năng kết nối lý trí với mạc khải.  Từ đó, thần học mang sứ mệnh tìm hiểu những chân lý mà Thiên Chúa đã mạc khải qua Kinh Thánh, tức là đi từ “đức tin nghe” tới “đức tin hiểu”. Mục đích của Tôma là thiết lập một sự hài hòa giữa triết và thần học.

Cũng tại Paris, Bonaventure, một thần học gia dòng Phanxicô, cẩn thận hơn về mối tương quan giữa triết học và thần học. Triết học là bộ môn tìm kiếm tri thức về tự nhiên và do nỗ lực của con người, nhưng thần học thì căn cứ trên đức tin và mạc khải. Một mình triết học có thể đưa chúng ta đến sai lầm và tự cao. Aristote đã không nhận ra các “nguyên mẫu” (ý niệm trong tư tưởng của Thiên Chúa) và sai lầm về sự tồn tại vĩnh cửu của thế giới. Chỉ qua sự dẫn dắt của đức tin và thần học (ánh sáng thần linh) thì lý trí mới có thể đạt đến tri thức siêu việt và cùng đích chính là Thiên Chúa. Bonaventura vẫn áp dụng triết học Hy-lạp, nhưng khởi đầu bằng thực tại được mạc khải (nhập thể và cứu rỗi và mang dấu vết của Thiên Chúa Ba Ngôi) rồi mới khai thác siêu hình học, tri thức luận và đạo đức học. Có thể nói, Tôma nghiên cứu thần học qua nhãn quan của triết học, Bonaventure lý giải triết học qua lăng kính của thần học.

Giai đoạn cuối của Kinh Viện: Vào cuối thể kỷ 13, ảnh hưởng quá đáng của triết lý Averroes trên thần học Kinh Viện đưa đến thái độ hoài nghi và phê phán hơn về việc dùng triết học. Tiêu biểu là án lệnh năm 1274 của Đức Giám Mục Tempier (Paris) biện bác các hệ luận của triết học duy lý và lối suy tư thần học theo Aristote. Sau đó, Scotus cũng phản đối quan điểm cho rằng tự triết học có thể thỏa mãn mọi khao khát tri thức của con người. Chống lại chủ trương cho rằng vũ trụ được điều khiển bởi những nguyên lý tất yếu trong triết Hy-lạp và Ả-rập, Scotus nhấn mạnh về tính bất tất và tùy thuộc của vũ trụ hoàn toàn vào ý chí tự do của Thiên Chúa. Tạo dựng và những gì “tốt đẹp” trong đó không do một Trí tuệ vĩnh hằng nào tiền định nhưng vì Thiên Chúa muốn như thế.  Scotus bác bỏ “ý niệm phổ quát” của trường phái duy thực Trung Cổ và nhấn mạnh về khía cạnh tích cực của “cá tính đặc thù” (haecceitas) và chủ thuyết tự do về ý chí. Scotus muốn chỉnh đốn lại ngôn ngữ và khái niệm về Thiên Chúa một cách chính xác hơn.

Ockham không mấy tin tưởng về khả năng của lý trí đạt đến chân lý. Ockham muốn bảo vệ tự do và tính toàn năng của Thiên Chúa so với tính bất tất của thụ tạo. Triết học phải hài lòng với chân lý “gần đúng” và chỉ có đức tin mới có thể đem lại sự chắc chắn. Đa nguyên (plurality) không phải là điều tất yếu nếu ta có thể giải thích thực tại cách giản dị hơn (Dao cạo Ockham). Eckehart qua sáng tác thần bí đã nhấn mạnh về khoảng cách vô hạn giữa Thiên Chúa và tạo vật, tính siêu việt của tri thức và hiện hữu của Thiên Chúa, và sự tùy thuộc hoàn toàn tuyệt đối của tạo vật cho sự tồn tại của mình. Như thế thì sau thế kỷ XIV, năng lực đầu tư vào sự hài hòa triết-thần không còn nữa và mỗi ngành học thuật phát triển theo lộ trình riêng biệt của mình.

PHỤC HƯNG - CẬN ĐẠI: PHÊ PHÁN - CÁCH LY

Khởi đầu giai đoạn Cận đại, Giáo hội phải đối đầu với những cuộc khủng hoảng không chỉ đến từ Phong Trào Cải Cách mà còn từ các cuộc tấn công vào chân lý của Kinh Thánh từ quan điểm khoa học của thời Ánh Sáng. Nổ lực của sự tổng hợp Kinh Viện là thiết lập nền tảng hợp lý cho niềm tin Kitô, mạc khải thần linh và thẩm quyền của Giáo hội trên cơ sở triết học. Nhưng với các khám phá khoa học của Galileo, Gasendi, Bacon, Descartes, và Newton--vốn vừa là triết gia vừa là những nhà nghiên cứu khoa học, toán, vật lý—thì sự tổng hợp triết-thần này không còn đứng vững được nữa.  Triết học trở thành bộ môn nghiên cứu riêng biệt và khẳng định một chỗ đứng riêng cho mình giữa thần học và các ngành khoa học chính xác.  Triết học Phục Hưng quay về chủ nghĩa tự nhiên và khoa học xã hội và chuyển từ các chủ đề tôn giáo sang chính trị học (Machiavelli, Hobbes). Triết học Ánh Sáng qua phương pháp quy nạp và thực nghiệm (Bacon) đã lót đường cho các nền tảng tri thức mới và thay thế hệ thống triết thần luận của Kinh viện.

Hai nền tảng tri thức luận mới được khai triển ở giai đoạn này là duy lý và duy nghiệm. Descartes đề xướng một “tri thức luận hoài nghi” trên cơ sở lý trí hay tư duy. Bằng cách hoài nghi tất cả gì đến từ thế giới bên ngoài (kinh nghiệm, truyền thống, v.v.) nhưng không thể hoài nghi tư duy, Descartes thiết lập được nền tảng chắc chắn cho tri thức: “Tôi tư duy do đó tôi hiện hữu.” Hậu quả là một loại siêu hình học nhị nguyên với hai bản thế “tư duy” và “trương độ”. Từ việc khẳng định sự tồn tại tuyệt đối của chủ thể như một bản thể tư duy, Descartes suy luận ra sự tồn tại của Thượng đế dựa trên khái niệm “hoàn hảo” mà chủ thể tìm gặp trong ý thức của mình. Thượng đế là “nguyên nhân” của những khái niệm vượt quá giới hạn của chủ thể con người. 

Mặt khác, Locke và Hume thiết lập nền tảng tri thức trên những kinh nghiệm thực chứng (duy nghiệm). Locke giới hạn tri thức con người chỉ đến từ những gì xuất hiện bên ngoài và để lại ấn tượng lên tri giác. Locke cho rằng niềm tin tôn giáo xuất phát từ chứng cớ của phép lạ. Luận điểm “chứng cớ” về Thượng Đế mà cả Descartes và Locke dùng (khái niệm hoàn hảo bên trong chủ thể & phép lạ bên ngoài) sẽ bị Hume thay thế bằng sự “đổng cảm” chính là nguồn gốc cho tôn giáo.

Trong thế giới vật lý của thời Ánh Sáng, tất cả là máy móc và kết quả của động lực do đó không còn chỗ cho mục đích nội tại như trong siêu hình học của Aristotle và Kinh Viện. Như thế, giữa siêu hình học nhị nguyên của Descartes và thế giới động lực của Newton thì triết học cận đại cần phải giải thích mối tương quan giữa ý thức và thế giới vật chất, nếu không thì tự do con người trở thành vô nghĩa, và đạo đức chỉ là kết quả của máy móc.  Đó là nổ lực của Spinoza và Leibniz.  Chủ thuyết đa thần Spinoza (Deus sive Natura) đề nghị rằng dù vũ trụ bên ngoài có hình thức vật lý, nhưng bản chất bên trong vẫn là tinh thần, đó là Thượng đế hay Tri thức thần linh. Leibniz cho rằng mọi sự vật trong vũ trụ được cấu tạo nên bởi các đơn tử có nội tâm là tinh thần (ý thức, nhận thức, etc.). Thượng đế đã an bài cuộc sống của mọi sự vật từ tạo thành, kể cả sự tự do chọn lựa của mỗi đơn tử.  Đây là thế giới tốt nhất mà Thiên Chúa có thể tạo nên được giữa quyền năng tuyệt đối của Người và tự do chọn lựa của thụ tạo.  Thần lý học của Leibniz cho phép sự pha trộn giữa sự dữ và sự thiện trong thế giới do Thiên Chúa tạo nên. 

Cuối cùng, Hume--một triết gia duy nghiệm--hoài nghi khả năng của tôn giáo và lý trí có thể cung cấp tri thức về căn nguyên của vũ trụ. Tri thức của chúng ta đến từ kinh nghiệm đến và “ấn tượng” mà kinh nghiệm để lại trong ký ức. Các ấn tượng này tạo ra “ý niệm” hay thói quen trong cách chúng ta nhận thức về thế giới vật chất.  Vì thế, logic “Nguyên Nhân & Hậu Quả mà thuyết duy lý cho là hiển nhiên chẳng qua là thói quen của quan sát các sự vật chuyển động. Hume loại bỏ mọi báo cáo về phép lạ như là không đáng tin cậy cho bằng các qui luật tự nhiên trong vũ trụ. Hume giải thích “phép lạ” chẳng qua là sự đổi ngược của những gì chúng ta quen nhận thức trong vũ trụ mà thôi.  Như vậy, với Hume, triết học thời Ánh Sáng cuối cùng đã thay thế “tôn giáo thần khải” (revealed religion) bằng “tôn giáo tự nhiên” (natural religion).

Nổ lực phục hồi “tôn giáo” sau thời Ánh Sáng: Một số triết gia cảm thấy quan điểm giản lược về tôn giáo trên đây không nói lên được bản chất chân thực của lý tính, hiện tượng tinh thần và cảm xúc vốn tiềm tàng trong niềm tin tôn giáo. Sau khi cơn lốc “Ánh Sáng” lắng dịu xuống thì triết học của Kant, Hegel và Schleiermacher đã thổi vào những luồng sinh khí mới cho mối tương tác giữa triết học và thần học, qua các ngôn ngữ đặc thù của luân lý, triết học và cảm xúc.

Kant giới hạn tôn giáo trong phạm vi của lý trí. Kant tạo một cuộc cách mạng tầm cỡ Copernicus bằng cách khai triển hệ thống siêu hình và nhận thức luận dựa trên phương pháp tiên nghiệm tổng hợp giữa kinh nghiệm và phạm trù. Triết học duy tâm phê phán của Kant đề xướng các phạm trù mới về niềm tin tôn giáo, về luận cứ cho sự tồn tại của Thiên Chúa dựa trên lý tính thực hành. Quan điểm tôn giáo của Kant đã hình thành một đạo đức học dựa trên bổn phận và mệnh lệnh tuyệt đối của lý trí.  Trong lúc đó, Hegel cho rằng phạm vi tri thức của Kant giữa kinh nghiệm và phạm trù cần phải được nới rộng để bao gồm bao gồm cả lịch sử và khái niệm. Qua tiến trình lịch sử hóa suy tư biện chứng của ý thức, Hegel đề xướng một hệ thống triết học duy tâm tuyệt đối như là một tuyên bố chung cuộc về tôn giáo vốn là sự hiện thân lịch sử của Tinh Thần trong thế giới hiện tại.  Trong khi Kant giới hạn lý trí để nhường chổ cho đức tin thì Hegel đã dùng tôn giáo là bước trung gian cho hợp đề cuối cùng chính là Tinh Thần của lịch sử.

Giữa quan điểm nhìn tôn giáo qua lý tính thực hành của Kant và lý tính lịch sử của Hegel trên đây, Schleiermacher đã vạch ra con đường cảm xúc cho tôn giáo qua triết học lãng mạn. Schleiermacher lý giải rằng sự hiệp nhất của “cảm xúc” có trước khi  lý trí con người tách biệt thành hai lộ trình “thực hành luân lý (Kant) hay “tư duy biện chứng” (Hegel).  Và cảm xúc “lệ thuộc tuyệt đối” chính  là nơi xuất pháp và cư ngụ của cảm thức tôn giáo. Điểm chung của triết học và thần học là ý thức về sự “lệ thuộc tuyệt đối” vốn là ngôn ngữ căn bản nhất của tôn giáo.  Từ đó chúng ta có thể nhận ra các nổ lực tìm kiếm, gặp gỡ và hình thành khái niệm về “Đấng Tuyệt Đối” qua những dự án vĩ đại của lịch sử con người như văn hóa, âm nhạc, hội họa, khoa học, etc. Tôn giáo là một trực giác sâu sắt về sự hiệp nhất của vũ trụ và tính lệ thuộc của tồn tại.

THỜI HIỆN ĐẠI: HỆ THỐNG - ĐA DẠNG

Sau Hegel, tương quan giữa triết học và thần học trở nên phê phán triệt để hơn. Triết gia chia ra làm hai phe về cách giải thích vai trò của tôn giáo trong sứ mệnh tìm kiếm chân lý. Phe tả (Feurberbach, Marx, Freud, Nietzsche) hoài nghi ngờ vai trò của tôn giáo trong sự phát triển toàn vẹn của con người và xã hội và cố gắng vạch trần mặt nạ tham vọng quyền lực và ảo tưởng tha hóa của tôn giáo đang đe dọa sự hình thành của chủ thể con người. Trái lại, phe hữu (Kierkegarrd, Tân Chính-thống) xem niềm tin tôn giáo như những thử thách giúp con người trở thành những chủ thể chân chính trước mặt Thiên Chúa và sửa sai các quan điểm giản lược về đức tin của phe tả. Cả hai đều đóng góp vào dự án giải phóng chủ thể của triết Hiện Đại. Chúng ta hãy sơ lược qua mối tương quan triết-thần giữa hai quan điểm đối nghịch này.

Phía tả, khởi sự từ Feuerbach (1808-1872), cho rằng tôn giáo là sự phóng chiếu nhu cầu của con người thành những hình ảnh chúng ta có về Thiên Chúa. Vi thế, triết học nên đóng vai phê phán, lột trần chiều kích “tha hóa” của tôn giáo.  Ý niệm Thiên Chúa như là Đấng vô cùng hoàn hảo và tuyệt đối chỉ là những khao khát mà con người bị từ chối nơi chính mình. Kinh Thánh nói Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Chúa, nhưng đúng hơn là con người đã tạo hình ảnh Thiên Chúa theo nhu cầu phóng chiếu của chính mình.

Marx (1818-1883) dùng logic biện chứng pháp để lột trần hình thức thống trị của tinh thần trên vật chất trong tôn giáo, không khác gì sự tha hóa của giới lao động trong chế độ tư bản.  Cho dù mục tiêu của tôn giáo là xoa dịu mọi đau khổ của con người, nhưng loại “thuốc phiện” này đã ru ngủ và làm cho con người không còn sống cho chính mình nữa.  Phê bình tôn giáo cần tạo nên một cuộc cách mạng giải phóng và giúp con người sống thực sự cho mình cùng đáp ứng nhu cầu của chính mình.  Cần một loại giải thích học hoài nghi để giải mã ý nghĩa chân thực đang bị đè nén bên dưới ý thức hệ và cơ cấu của tôn giáo. 

Freud (1856-1939) đề nghị một giải thích học hoài nghi dựa trên tâm lý học chiều sâu. Ông cho rằng tôn giáo phóng đại cách sai lệch và bằng cách đè nén các xung đột vô thức gây ra bởi ám ảnh tính dục của con người. Cũng giống như những triệu chứng nhiễu tâm cá nhân, tôn giáo nói lên khao khát bản năng căn bản của con người, nhưng lại ngụy tạo chúng bằng những hình thức vốn bị thanh trừng và chọn lọc bởi tiếng nói của các siêu ngã đến từ văn hóa hay truyền thống tôn giáo.  Do đó, ý nghĩa chân thực của tôn giáo chỉ có thể tìm gặp được qua các xung lực cá nhân đang bị đè nén và chôn vùi bên dưới tiềm thức của con người.

Nietzsche (1844-1900) lý luận rằng hệ thống đạo đức mà chúng ta đang sống là bệnh hoạn và chối bỏ những gì mang lại hạnh phúc chân thực cho con người. Tôn giáo chính là những “mặt nạ” của ý muốn quyền lực mà nó không thể đạt được bằng quyền lực thế tục. Tôn giáo là nguồn gốc và sự thành hình của luân lý và mặc cảm tội lỗi từ chủ thể bệnh hoạn muốn thống trị nhưng vì không thể thực hiện được, đành đè nén lương tâm và phóng đại ý muốn quyền lực của mình qua các “nhân đức.” Sự lành mạnh cuối cùng của con người theo Nietzsche là không chỉ ý thức Thượng đế đã chết mà chính chúng ta đã “giết Thượng đế” bằng sự tha hóa giả dối của mình. Con người phải “vượt qua chính mình” để trở thành “siêu nhân” hay dám sống như một “ông chủ” thay vì một “nô lệ” cho các giá trị đạo đức giả tạo đang giam cầm chúng ta.

Về phe hữu thì có Kierkegaard (1813-1855) và phong trào Tân-chính thống.  Kierkegaard chỉ trích triết học tinh thần của Hegel bị quá lôi cuốn vào vòng xoáy lịch sử và đã đánh mất ý nghĩa sâu đậm của sự tồn tại của cá nhân.  Tiến trình biện chứng lịch sử của Hegel đã bỏ rơi vai trò thiết yếu của niềm tin cá nhân.  Chính niềm tin của mỗi cá nhân đã làm cho con người trở thành “chủ thể” vốn là một quyết định mà không ai có thể chọn thay cho mình được. Triết lý không thể thay thế cho sự dấn thân và phó thác trong tôn giáo, vì nếu không dám quyết định cho chính mình thì chúng ta chỉ sống theo não trạng “bầy đàn.”  Kierkegaard đánh thức nỗi lo âu hiện hữu và chiều kích vô hạn của nội tâm. Trong con người có một nỗi lo âu vô hạn thôi thúc loài người núp sau những cơ cấu lịch sử với hy vọng sẽ mang lại sự an tâm bên ngoài như văn hóa, triết học, cấu trúc chính trị xã hội. Muốn vượt qua nỗi lo âu vô hạn này, con người cần phải đánh mất mình để gặp lại chính mình. Chính Thiên Chúa cũng phải mặc lấy thân phận con người để Người có thể đem tình yêu vô hạn đến với chúng ta là những chủ thể hữu hạn.

Phong trào Tân-chính thống cho rằng thần học cấp tiến đã không nhận ra ảnh hưởng của đối tượng Vô Hạn trên ý thức của chủ thể. Bultmann (1884-1976) áp dụng phương pháp “giải trừ huyền thoại” (de-mythologization) muốn gột bỏ vỏ bọc văn hóa và huyền thoại hầu nắm bắt cốt lõi hiện sinh của con người khi đối diện với Thiên Chúa mà Kinh Thánh muốn truyền đạt. Karl Barth (1886-1968), chống lại khuynh hướng duy tâm của Kant, lý luận rằng con người phải đối diện một cách khách quan các ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi, đặc biệt là biến cố Nhập Thể. Đức tin là yếu tố tiên quyết trong khả năng nhận thức này. Martin Buber (1878-1965) chỉ trích thói quen “đối tượng hóa” Thiên Chúa như “cái gì đó” tồn tại trong thế giới.  Buber dùng ngôn ngữ hiện sinh để mô tả hiện tượng niểm tin. Đấng Tối Cao không thể được diễn tả cách hoàn toàn bằng ngôn ngữ của ngôi thứ ba, nhưng mà là một cuộc “gặp gỡ” giữa “Tôi và Ngài.”

Triết hậu hiện đại cũng đã để lại dấu vết trên sự tương quan triết-thần. Levinas (1905-1995) lý luận rằng nếu có Thiên Chúa thì Ngài luôn luôn vĩ đại hơn mọi dự phóng và hoài bão của con người muốn xây dựng các hệ thống tri thức luận tổng hợp như trong thời hiện đại. Whitehead (1861-1947) muốn thiết lập một loại siêu hình học mới dựa trên biến cố và tiến trình thay đổi (Process philosophy). Whitehead đề nghị một khái niệm song nguyên về Thiên Chúa như một Đấng với bản chất bất biến (in se) và bản chất hiệu quả (pro nobis) do mối tương quan của Người với thụ tạo đang còn biến dạng. Hartshorne (1897-2000) cho rằng quan điểm “tiến trình” thì hợp lý và thích ứng hơn với Kinh Thánh. Người tín hữu có lẽ sẽ cảm thấy gần gũi hơn với một Thiên Chúa cảm thông với những nỗi truân chuyên trong cuộc sống của họ, hơn là một Thượng đế bất biến và xa vời chỉ chiêm ngắm sự hoàn hảo của chính mình (Aristote và Tôma).

Cuối cùng, về ngôn ngữ tôn giáo, cũng có những thay đổi đáng kể trong thời hậu hiện đại.  Wittgenstein (1889-1951) muốn giúp cho ngôn ngữ tôn giáo tránh khỏi khuynh hướng hiện thực hóa (reify), thần hóa (deify) hoặc bị thất lạc trong mê cung của ngôn ngữ siêu hình. Wittgenstein lý luận rằng mọi trải nghiệm con người (kể cả kinh nghiệm tôn giáo) đều nằm trong một vòng tròn ngôn ngữ nào đó vốn tạo nên “thực tại” mà chúng ta đang trải nghiệm. Ý nghĩa của niềm tin tôn giáo nằm trong cách chúng ta biết cách sống và hành động như là một tín hữu.  Mặc khác, Derrida qua dự án “giải-cấu trúc(deconstructionism) phản đối khuynh hướng truy tầm “logos” hay duy cấu trúc (structuralism) trong lịch sử triết học. Ngôn ngữ về Thiên Chúa cần phải được mở rộng để chúng ta tiếp tục bị ngạc nhiên và đánh thức bởi Đấng Tuyệt Đối, rất còn xa lạ với chúng ta.

------------------------------------

Tài liệu tham khảo:

Tương Quan Thần Học, Joseph Tân Nguyễn, NXB Đồng Nai, 2021.

Thông Diễn Học, Joseph Tân Nguyễn, NXB Đồng Nai, 2022.

Tôn Giáo: La Bàn Thiêng Liêng Cho Con Người, NXB Tôn Giáo, 2023.

 

zalo
zalo