Ngày tháng: 21/12/2024
Đang truy cập: 11

TUYÊN NGÔN VỀ MỐI LIÊN HỆ CỦA GIÁO HỘI VỚI CÁC TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ GIÁO

PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ

 

TUYÊN NGÔN
VỀ MỐI LIÊN HỆ CỦA GIÁO HỘI
VỚI CÁC TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ GIÁO

NOSTRA AETATE
Ngày 28 tháng 10 năm 1965

 

1.

Trong thời đại chúng ta, khi nhân loại ngày càng liên kết với nhau chặt chẽ hơn và các mối tương quan giữa các dân tộc cũng gia tăng thêm nhiều, Giáo Hội muốn quan tâm nhiều hơn nữa đến mối liên hệ của mình với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Với nhận thức về nhiệm vụ phải phát huy sự hiệp nhất và tình yêu thương giữa con người và nhất là giữa các dân tộc, Giáo Hội nghiệm xét trước tiên ở đây những gì đã được ban chung cho con người và đang dẫn đưa con người đến với nhau.

Quả thật, tất cả các dân tộc đều thuộc về một cộng đồng, có chung một nguồn gốc, vì Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại để họ cư ngụ trên khắp mặt địa cầu1, có chung một cùng đích tối hậu là chính Thiên Chúa, Đấng vẫn hằng trải rộng sự quan phòng, chứng tích của lòng nhân hậu và ý định cứu độ trên tất cả mọi người2, cho đến khi những người được tuyển chọn quy tụ trong Thành thánh, nơi ánh vinh quang Thiên Chúa chiếu toả rạng ngời, nơi muôn dân bước đi trong ánh sáng của Ngài3.

Con người mong đợi các tôn giáo đưa ra lời giải đáp về những bí nhiệm tiềm ẩn trong thân phận con người, những điều xưa nay vẫn làm thâm tâm họ ưu tư trăn trở: Con người là chi? Cuộc sống chúng ta mang ý nghĩa và mục đích gì? Thế nào là thiện hảo và tội lỗi? Đau khổ có nguyên nhân và mục đích nào? Đâu là con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực? Phải hiểu thế nào về cái chết, sự phán xét và thưởng phạt sau khi chết? Sau cùng, đâu là huyền nhiệm tối hậu và khôn tả bao trùm cả cuộc hiện hữu của con người, nơi chúng ta xuất phát và cũng là điểm chúng ta phải hướng về?

Các tôn giáo

2.

Ngay từ thời cổ đại cho đến cả thời hiện đại ngày nay, nơi nhiều dân tộc khác nhau, vẫn có một cảm nhận nào đó về một quyền lực tàng ẩn trong những biến chuyển của vạn vật và trong các biến cố của đời người, hơn nữa, đôi khi cũng thấy xuất hiện quan niệm về một Đấng Thượng Đế tối cao hoặc ngay cả nhận thức về một người Cha. Cảm nhận và quan niệm đó đã đi vào cuộc sống các dân tộc qua cảm thức sâu xa về tôn giáo. Phần các tôn giáo, vốn gắn liền với đà tiến bộ của các nền văn hoá, cố gắng giải đáp những vấn nạn trên bằng những ý niệm cao sâu và bằng thứ ngôn ngữ ngày càng tinh tế. Như trong Ấn giáo, con người tìm hiểu huyền nhiệm thần linh và tìm cách diễn đạt bằng những thần thoại vô cùng phong phú cũng như bằng các nỗ lực suy tư triết lý sâu sắc, đồng thời đi tìm lối thoát khỏi những nỗi lo âu của kiếp người, hoặc bằng nếp sống khổ hạnh, hoặc nhờ tịnh niệm thâm sâu, hay tìm nương ẩn nơi Thượng Đế với lòng kính yêu và tin tưởng. Trong khi đó, Phật giáo, với nhiều tông phái khác nhau, đã nhận ra sự bất túc tận căn của thế giới vô thường này và đã khai sáng lối đường cho những người chính tâm và thành tín, giúp họ tìm thấy sự giải thoát hoàn toàn hay đạt đến sự giác ngộ tối thượng, nhờ những nỗ lực của bản thân hoặc sự tế độ của ơn trên. Cũng vậy, với nhiều cách thức khác nhau, các tôn giáo trên thế giới đều cố gắng giúp tâm hồn con người vượt qua những lo âu dằn vặt, bằng cách mở ra những nẻo đường được trình bày qua giáo thuyết, luật sống cũng như các lễ nghi phụng tự.

Giáo Hội Công giáo không bao giờ phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo ấy. Giáo Hội luôn chân thành tôn trọng những cung cách hành động và lối sống, cũng như những huấn giới và giáo thuyết của các tôn giáo, mặc dù có nhiều điểm khác với chủ trương và đề nghị của Giáo Hội, nhưng vẫn thường mang theo một tia sáng nào đó của chính Chân lý đang chiếu soi tất cả mọi người. Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn rao giảng, và kiên quyết không ngừng rao giảng Chúa Kitô, Đấng là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6), trong Người, con người tìm được đời sống tôn giáo sung mãn, và nhờ Người, Thiên Chúa giao hoà mọi sự với mình4.

Vì thế, Giáo Hội khuyến khích con cái luôn biết nhìn nhận, giữ gìn và làm tăng triển những giá trị tâm linh, luân lý cũng như các giá trị xã hội-văn hoá nơi những tín đồ thuộc các tôn giáo khác, nhờ việc đối thoại và hợp tác với thái độ thận trọng và bác ái, trong khi vẫn nêu cao chứng tá của niềm tin và đời sống Kitô hữu.

Hồi giáo - Do Thái giáo

3.

Giáo Hội cũng tôn trọng các tín đồ Hồi giáo, những người thờ phượng Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và hằng hữu, nhân hậu và toàn năng, Đấng Tạo Thành trời đất5, Đấng đã ngỏ lời với con người, Đấng đưa ra những phán quyết bí nhiệm mà họ luôn tuân phục với trọn cả tâm hồn, theo mẫu gương tùng phục Thiên Chúa của Abraham, người mà niềm tin Hồi giáo vẫn luôn gắn bó. Dù không nhìn nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng họ tôn sùng Người như vị Tiên tri, kính trọng Mẹ đồng trinh của Người là Đức Maria, và đôi khi cũng sốt sắng cầu khẩn Mẹ. Hơn nữa, họ cũng trông đợi ngày phán xét, ngày Thiên Chúa thưởng phạt mọi người khi sống lại. Chính vì thế, họ tôn trọng đời sống luân lý và thờ phượng Thiên Chúa, nhất là bằng việc cầu nguyện, bố thí và chay tịnh.

Dù trong lịch sử đã xảy ra không ít bất hoà và hiềm thù giữa các Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo, Công Đồng khuyên mọi người nên quên đi quá khứ và cố gắng chân thành tìm hiểu lẫn nhau, cũng như cùng nhau bảo vệ và cổ vũ công bình xã hội, các giá trị luân lý cũng như hoà bình và tự do cho tất cả mọi người.

4.

Khi tìm hiểu mầu nhiệm Giáo Hội, Công Đồng nhắc lại mối dây liên kết thiêng liêng giữa đoàn dân Tân ước và dòng dõi Abraham.

Thật vậy, Giáo Hội Chúa Kitô nhìn nhận rằng, theo mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, khởi điểm của đức tin và của việc tuyển chọn Giáo Hội được tìm thấy nơi các Tổ phụ, Môsê và các ngôn sứ. Giáo Hội tuyên xưng rằng tất cả các Kitô hữu, con cháu của Abraham theo đức tin6, đã được tích chứa ngay trong ơn gọi của vị Tổ phụ, và sự cứu độ của Giáo Hội đã được tiên báo cách huyền nhiệm trong cuộc xuất hành khỏi miền đất nô lệ của đoàn dân được tuyển chọn. Vì thế, Giáo Hội không thể quên rằng mình đã nhận được mặc khải Cựu ước nhờ chính dân tộc mà Chúa đoái thương ký kết Giao ước cũ do lòng thương xót vô biên của Ngài, và được nuôi dưỡng nhờ gốc rễ ôliu tươi tốt, trên đó những cành ôliu hoang dã là chư dân đã được tháp ghép vào7. Thật vậy, Giáo Hội tin rằng Chúa Kitô, Bình an của chúng ta, nhờ Thập giá đã hoà giải dân Do Thái với dân ngoại và liên kết cả hai nên một nơi chính bản thân Người8.

Giáo Hội luôn nhớ đến lời của Tông đồ Phaolô viết về anh em đồng chủng của ngài, “là những người được Thiên Chúa nhận làm con, được trao ban vinh quang, giao ước, lề luật, nền phụng tự và các lời hứa, họ có các vị tổ phụ, và chính Đức Kitô, con của Đức Trinh Nữ Maria, xét theo xác thể, cũng xuất thân từ họ” (Rm 9,4-5). Giáo Hội cũng nhớ rằng các Tông đồ, nền móng và cột trụ Giáo Hội, cũng như nhiều môn đệ đầu tiên, những người loan báo Tin Mừng Chúa Kitô cho trần gian, đã sinh ra từ dân tộc Do Thái.

Theo chứng từ Thánh Kinh, Giêrusalem đã không nhận biết thời gian Thiên Chúa viếng thăm9, và phần lớn dân Do Thái đã không tiếp nhận Tin Mừng, nhiều người lại còn chống đối việc loan truyền Tin Mừng10. Tuy thế, vì các Tổ phụ, theo lời Thánh Tông Đồ, người Do Thái vẫn luôn được Thiên Chúa yêu thương, Đấng không hối tiếc vì đã ban ơn và kêu gọi họ11. Cùng với các ngôn sứ và Thánh Tông Đồ, Giáo Hội chờ đợi ngày mà chỉ một mình Thiên Chúa biết, ngày mọi dân tộc đồng thanh kêu cầu Đức Chúa và “kề vai sát cánh phụng sự Người” (Sp 3,9)12.

Vì người Kitô hữu và Do Thái cùng có chung một di sản thiêng liêng thật cao quý, nên Công Đồng muốn cổ vũ và khuyên nhủ hai bên hãy tìm hiểu và tôn trọng lẫn nhau, đây là điều có thể thực hiện được đặc biệt qua việc học hỏi Kinh Thánh và thần học cũng như qua những cuộc đối thoại huynh đệ.

Mặc dù nhà cầm quyền Do Thái và một số người liên hệ đã gây nên cái chết của Đức Kitô13, nhưng trách nhiệm về những lỗi phạm trong cuộc khổ nạn của Người không thể bị gán buộc cách hàm hồ cho tất cả người Do Thái đương thời hay cho người Do Thái ngày nay. Dù Giáo Hội thực sự là đoàn dân mới của Thiên Chúa, nhưng, dựa theo lời Thánh Kinh, người Do Thái không hề bị Chúa chê bỏ hay chúc dữ. Vì thế, lúc dạy giáo lý cũng như khi rao giảng Lời Chúa, mọi người cần lưu tâm tránh nói những gì không phù hợp với chân lý của Tin Mừng và tinh thần của Chúa Kitô.

Hơn nữa, Giáo Hội luôn phản bác tất cả những hành vi bách hại đối với bất cứ ai, đồng thời vẫn nhớ mình có chung một di sản với người Do Thái, và được thúc đẩy bởi đức ái cao cả của Tin Mừng chứ không do động cơ chính trị, nên Giáo Hội đau xót trước thái độ thù hằn, những cuộc bách hại và mọi biểu hiện của chủ trương bài Do Thái vào bất cứ thời điểm nào và do bất cứ ai chống lại người Do Thái.

Đàng khác, Giáo Hội đã luôn luôn và vẫn đang gắn bó với Đức Kitô, Đấng do tình thương vô biên, đã tự nguyện đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết, vì tội lỗi của mọi người và để mọi người được cứu độ. Vì thế, khi rao giảng, Giáo Hội loan báo Thập giá Đức Kitô như dấu chỉ tình yêu phổ quát của Thiên Chúa và như nguồn mạch của mọi ân sủng.

Tình huynh đệ

5.

Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha tất cả mọi người, nếu chúng ta từ chối xử sự trong tình huynh đệ đối với những người cũng đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa là Cha và với anh em đồng loại, được liên kết chặt chẽ với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4,8).

Điều đó đủ làm sụp đổ nền tảng của bất cứ chủ thuyết hay hành động nào dẫn đến thái độ kỳ thị giữa người này với người kia, hay giữa dân tộc này với dân tộc khác, liên quan đến phẩm giá con người và những quyền lợi xuất phát từ nhân phẩm.

Như thế, Giáo Hội phản bác mọi hình thức kỳ thị hoặc đàn áp con người do phân biệt chủng tộc, màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì đây là thái độ đi ngược lại tinh thần của Đức Kitô. Do đó, tiếp bước các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, Công Đồng tha thiết kêu mời các Kitô hữu “hãy cư xử tốt lành giữa dân ngoại” (1 Pr 2,12), và nếu có thể được, hãy nỗ lực tối đa để sống hoà thuận với tất cả mọi người14, như những người con đích thực của Cha trên trời15.

Tất cả và từng điều được ban bố trong Tuyên Ngôn này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 28 tháng 10 năm 1965
Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo
(Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)

-------------------------------------------------------------------------

[1] x. Cv 17,26.

 

[2] x. Kn 8,1; Cv 14,17; Rm 2,6-7; 1 Tm 2,4.

[3] x. Kh 21,23t.

[4] x. 2 Cr 5,18-19.

[5] x. T. GRÊGÔRIÔ VII, Epist. III, 21 ad Anzir (Nãşir), regem Mauritani„, xb. E. Caspar in MGH. Ep. Sel. II, 1920, I, tr. 288, 11-15: PL 148, 451.

[6] x. Gl 3,7.

[7] x. Rm 11,17-24.

[8] x. Ep 2,14-16.

[9] x. Lc 19,44.

[10] x. Rm 11,28.

[11] x. Rm 11,28-29; x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 16.

[12] x. Is 66,23; Tv 65,4; Rm 11,11-32.

[13] x. Ga 19,6.

[14] x. Rm 12,18.

[15] x. Mt 5,45.

zalo
zalo