Ngày tháng: 21/12/2024
Đang truy cập: 11

TUYÊN NGÔN VỀ TỰ DO TÔN GIÁO (kết thúc)

II. TỰ DO TÔN GIÁO DƯỚI ÁNH SÁNG MẶC KHẢI

9.

Phẩm giá của con người chính là nền tảng cho những điều Công Đồng Vaticanô này tuyên bố về quyền tự do tôn giáo của con người, và kinh nghiệm của bao thế hệ đã giúp cho lý trí nhân loại ngày càng thấy rõ những yêu cầu của chính nhân phẩm. Hơn nữa, giáo thuyết về tự do tôn giáo bắt nguồn từ Mặc khải của Thiên Chúa, nên người Kitô hữu càng phải thành kính tuân theo. Thật vậy, mặc dù không minh nhiên xác nhận quyền bất khả xâm phạm đối với mọi áp chế bên ngoài trong những điều liên quan đến tôn giáo, nhưng Mặc khải đã cho biết về nhân phẩm trong tất cả mọi chiều kích, đã cho thấy Chúa Kitô luôn tôn trọng tự do của con người trong việc thi hành bổn phận tin vào Lời Chúa, và cũng đã dạy chúng ta về tinh thần mà những môn đệ của vị Tôn sư cao cả phải hiểu biết và noi theo trong mọi hành động. Tất cả những điều trên làm sáng tỏ những nguyên tắc tổng quát được đặt làm nền tảng cho giáo thuyết về tự do tôn giáo của bản Tuyên Ngôn này. Điều đáng nói hơn cả là quyền tự do tôn giáo trong xã hội hoàn toàn phù hợp với thái độ tự do của hành vi đức tin Kitô giáo.

Tự do và đức tin

10.

Điểm chính yếu của học thuyết công giáo, được chứa đựng trong Lời Chúa và từng được các Giáo phụ giảng dạy8, là con người phải đáp lại ơn gọi đức tin vào Thiên Chúa cách tự nguyện. Do đó, không được cưỡng bách bất cứ ai phải chấp nhận đức tin trái với ý muốn9. Thật vậy, tự bản chất, hành vi đức tin là một hành vi tự ý, vì khi đã được cứu chuộc nhờ Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, và được mời gọi trở nên dưỡng tử nhờ Đức Giêsu Kitô10, con người chỉ có thể gắn bó với Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải, khi được Chúa Cha lôi kéo11, và khi tin phục Thiên Chúa với cả lý trí và tự do. Vì thế, trong lãnh vực tôn giáo, việc loại trừ mọi hình thức áp chế đối với con người là điều hoàn toàn phù hợp với bản chất của đức tin. Bởi đó, chủ trương tự do tôn giáo sẽ góp phần không nhỏ vào việc tạo điều kiện thuận lợi giúp con người có thể dễ dàng được mời gọi đến với đức tin Kitô giáo, tự ý đón nhận và tuyên xưng đức tin ấy cách nhiệt thành trong cả cuộc sống.

Gương Đức Kitô

11.

Thiên Chúa mời gọi con người phụng thờ Ngài trong tinh thần và chân lý, và con người chấp nhận gắn bó với Ngài bằng cả ý thức chứ không hề bị cưỡng bách. Thật vậy, Thiên Chúa tôn trọng phẩm giá của những con người do chính Ngài tạo nên, những người phải sống theo phán đoán của chính mình và phải được tự do. Điều này được tỏ hiện cách tuyệt hảo nơi Đức Kitô Giêsu, trong Người, Thiên Chúa đã mặc khải trọn vẹn chính mình và những đường lối của Ngài. Chúa Kitô là Thầy và là Chúa chúng ta12, Đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng13, chính Người đã kiên nhẫn dìu dắt và mời gọi các môn đệ14. Quả thật, Người đã chứng thực và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ để khơi dậy và kiện cường lòng tin của những kẻ đang nghe Người, chứ không phải để tạo áp lực cưỡng ép họ15. Rõ ràng Người đã khiển trách những kẻ nghe mà không tin, tuy nhiên quyền luận phạt vẫn được dành cho Thiên Chúa vào ngày phán xét16. Khi sai các Tông đồ đi khắp thế gian, Người phán: “Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu rỗi, còn ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,16). Nhưng khi thấy cỏ lùng được gieo lẫn vào lúa, Người lại bảo cứ để cả hai cùng mọc lên cho đến mùa gặt vào ngày thế mạt17. Không muốn là một vị Thiên Sai tham gia chính trường để thống trị bằng quyền lực18, Người thích tự xưng là Con Người, đến “để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Là người Tôi Trung hoàn hảo của Thiên Chúa19, Người “không đành bẻ gẫy cây lau bị giập, không nỡ vùi tắt tim đèn còn khói” (Mt 12,20). Người thừa nhận quyền bính và luật pháp dân sự khi bảo phải nộp thuế cho Cêsar, nhưng cũng khuyến cáo rõ ràng phải tôn trọng lề luật tối thượng của Thiên Chúa: “Của Cêsar hãy trả cho Cêsar, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Sau cùng, khi thực hiện công trình cứu chuộc trên Thánh giá để mang lại ơn cứu rỗi và tự do đích thực cho con người, Người đã hoàn tất mặc khải. Người đã làm chứng cho chân lý20, nhưng Người không muốn dùng sức mạnh để ép buộc những kẻ chống đối Người. Thật vậy, Nước Người không cần được bảo vệ bằng bạo lực21, nhưng được xây dựng khi chân lý được minh chứng và lắng nghe, được tăng triển nhờ chính tình yêu đã kéo mọi người lên với Chúa Kitô đang chịu treo trên Thập giá22.

Được dạy bảo bằng lời nói và mẫu gương của Chúa Kitô, các Tông đồ cũng đã đi theo con đường ấy. Từ thời Giáo Hội sơ khai, các môn đệ Đức Kitô đã không dùng hành động cưỡng bách và những thủ đoạn bất xứng với Tin Mừng, nhưng trên hết, các ngài dùng sức mạnh của Lời Chúa để dẫn đưa con người trở về tuyên xưng Đức Kitô là Chúa23. Các ngài đã mạnh dạn loan truyền cho mọi người biết ý định của Thiên Chúa Cứu Chuộc, “Đấng muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4); nhưng trong khi đó, các ngài vẫn tôn trọng những người yếu đuối, dù họ đang sống trong lầm lạc, và như thế, tỏ cho họ thấy “mỗi người chúng ta đều phải trả lẽ về chính mình trước mặt Thiên Chúa” (Rm 14,12)24, và phải luôn sống đúng theo lương tâm. Cũng như Chúa Kitô, các Tông đồ luôn chú tâm làm chứng cho chân lý của Thiên Chúa, đầy can đảm trước mặt dân chúng và nhà cầm quyền để “mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4,31)25. Quả thật, các ngài xác tín rằng Tin Mừng thực sự là sức mạnh của Thiên Chúa để cứu rỗi tất cả những ai có lòng tin26. Vì thế, từ khước mọi “khí giới thuộc xác thịt”27, noi gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Kitô, các ngài rao giảng lời Chúa với tất cả lòng tin tưởng vào sức mạnh thần linh của lời có khả năng phá tan các quyền lực chống lại Thiên Chúa28, giúp mọi người trở về tin kính và vâng phục Chúa Kitô29. Như Thầy mình, các Tông đồ nhìn nhận chính quyền hợp pháp: “Thật vậy, không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa”, thánh Phaolô nói lời đó khi nhắc nhở: “Mọi người hãy tùng phục quyền trên… ai chống đối quyền bính tức là chống lại trật tự Thiên Chúa đã đặt ra” (Rm 13,1-2)30. Nhưng đồng thời các ngài cũng không sợ hãi khi phải phản đối những quyền bính đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” (Cv 5,29)31. Trải qua bao thế hệ và khắp nơi trên trái đất, biết bao vị tử đạo và tín hữu cũng đã đi theo con đường ấy.

12.

Như vậy, trung thành với chân lý Tin Mừng, Giáo Hội đi theo con đường của Chúa Kitô và các Tông đồ, khi nhìn nhận và bênh vực nguyên tắc tự do tôn giáo như một nguyên tắc phù hợp với phẩm giá con người và với mặc khải của Thiên Chúa. Qua dòng thời gian, Giáo Hội vẫn bảo toàn và truyền dạy giáo thuyết đã nhận lãnh nơi Thầy chí thánh và các Tông đồ. Mặc dù trong đời sống của Dân Thiên Chúa, đang trên đường lữ hành qua những thăng trầm của lịch sử nhân loại, đôi khi cũng đã có những phương cách hành động không mấy thích hợp, thậm chí còn trái với tinh thần Tin Mừng, nhưng giáo thuyết của Giáo Hội vẫn luôn khẳng định không được cưỡng bách trong việc đón nhận đức tin.

Như thế, nắm men Tin Mừng từ lâu đã tác động trong các tâm hồn và qua dòng thời gian, giúp con người nhận thức sâu xa hơn về phẩm giá của nhân vị, đồng thời cũng thêm xác quyết khi đòi hỏi xã hội dân sự không được cưỡng chế con người trong lãnh vực tôn giáo.

Tự do của Giáo Hội

13.

Trong số những điều gắn liền với thiện ích của Giáo Hội cũng như của xã hội trần thế, những điều dù ở đâu hay vào thời nào luôn phải được tôn trọng và bảo vệ khỏi mọi xâm phạm, thì chắc chắn điều quan trọng nhất là Giáo Hội phải được tự do hành động theo như đòi hỏi của sứ mạng đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người32. Thật vậy, đây là quyền tự do mang tính thánh thiêng, do người Con duy nhất của Thiên Chúa ban cho Giáo Hội đã được cứu chuộc bằng chính giá Máu của Người. Tự do này dành cho Giáo Hội cách đặc biệt đến nỗi nếu ai xâm phạm là đã hành động chống lại thánh ý Thiên Chúa. Quyền tự do của Giáo Hội phải là nguyên tắc căn bản cho mối tương quan giữa Giáo Hội và chính quyền cũng như toàn thể cơ cấu dân sự.

Trong xã hội loài người và đối với tất cả các công quyền, Giáo Hội đòi hỏi quyền tự do, với tư cách là một cơ chế có quyền bính thiêng liêng do Chúa Kitô thiết lập, được ủy thác nhiệm vụ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật33. Đồng thời, Giáo Hội cũng đòi hỏi quyền tự do, với tư cách là một cộng đồng nhân loại, có quyền sinh hoạt trong xã hội dân sự theo những giới luật của niềm tin Kitô giáo34.

Vì thế, nơi nào thể chế tự do tôn giáo được đề cao, không những được tuyên bố bằng lời nói hay được phê chuẩn qua các đạo luật, nhưng còn được thực tâm thi hành, thì ở đó, trên nguyên tắc cũng như trong thực tế, Giáo Hội mới có được những điều kiện vững chắc, khả dĩ bảo đảm cho sự độc lập cần thiết để chu toàn sứ mạng Chúa đã trao phó, đây cũng là điều giáo quyền vẫn luôn kiên quyết đòi hỏi phải được thực thi trong cộng đồng xã hội35. Trong khi đó, các Kitô hữu, cũng như những người khác, phải được hưởng quyền công dân, không bị ngăn cản sống theo lương tâm. Như thế, có sự tương hợp giữa tự do của Giáo Hội và tự do tôn giáo, phải được thừa nhận và được phê chuẩn về mặt pháp lý như một quyền lợi của mọi người và mọi cộng đồng.

Trách vụ của Giáo Hội

14.

Để tuân hành mệnh lệnh Chúa truyền: “Hãy dạy dỗ muôn dân” (Mt 28,19), Giáo Hội Công giáo phải luôn nỗ lực tối đa “để Lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh” (2 Ts 3,1).

Vì thế, Giáo Hội tha thiết xin con cái mình, trước hết “hãy van nài, cầu nguyện, khấn xin và tạ ơn cho tất cả mọi người... đó là điều tốt lành và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng Cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,1-4).

Trong việc đào luyện lương tâm, các Kitô hữu phải luôn chú trọng đến giáo lý thánh thiện và vững chắc của Giáo Hội36. Thật vậy, theo ý định của Chúa Kitô, Giáo Hội Công giáo được đặt làm thầy dạy chân lý, có nhiệm vụ loan báo và giảng dạy cách xác thực chân lý là chính Chúa Kitô, đồng thời có thẩm quyền công bố và xác nhận những nguyên tắc trong lãnh vực luân lý, phát xuất tự chính bản tính con người. Ngoài ra, khi đến với những người còn ở bên ngoài Giáo Hội, với thái độ khôn ngoan, các Kitô hữu, “trong Chúa Thánh Thần, trong đức ái không giả dối, trong lời chân lý” (2 Cr 6,6-7), phải cố gắng chiếu toả ánh sáng sự sống với trọn niềm xác tín37, với lòng can đảm của người tông đồ, đến độ sẵn sàng đổ máu.

Đối với Chúa Kitô, vị Tôn sư, người môn đệ có bổn phận phải ngày càng thấu hiểu sâu xa hơn về chân lý đã lãnh nhận nơi Người, phải trung thành loan truyền và can đảm bảo vệ chân lý ấy, nhưng không được sử dụng những phương cách trái với tinh thần Tin Mừng. Đồng thời, vì tình yêu Chúa Kitô thúc bách, phải cư xử thật ưu ái, khôn ngoan và nhẫn nại đối với những người còn đang sống trong lầm lạc hoặc chưa nhận biết đức tin38. Vì thế, vừa phải quan tâm đến những bổn phận đối với Chúa Kitô, Lời ban sự sống, Lời phải được loan truyền, vừa phải lưu ý đến những quyền lợi của con người và năng lực của ân sủng mà Thiên Chúa, nhờ Chúa Kitô, ban cho những kẻ được mời gọi để tự nguyện đón nhận và tuyên xưng đức tin.

Kết luận

15.

Con người ngày nay rõ ràng luôn muốn được tự do tuyên xưng niềm tin tôn giáo cách riêng tư cũng như công khai, hơn nữa, quyền tự do tôn giáo cũng đã được Hiến pháp của phần lớn các quốc gia công bố như một quyền dân sự và đã được các văn kiện quốc tế long trọng công nhận39.

Tuy nhiên, vẫn có những chế độ, trong đó, dù quyền tự do phụng tự đã được thừa nhận trong Hiến pháp, các cơ quan công quyền luôn tìm cách ngăn cản người dân không được tuyên xưng tôn giáo họ tin theo, và làm cho đời sống các cộng đồng tôn giáo trở nên vô cùng khó khăn và bấp bênh.

Vừa vui mừng trước những dấu chỉ tốt đẹp của thời đại ngày nay, vừa phải đau lòng nêu lên một số sự kiện đáng buồn, Thánh Công Đồng khuyến khích những người công giáo, và cũng xin tất cả mọi người hãy quan tâm nhận định kỹ lưỡng về sự cần thiết của quyền tự do tôn giáo, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại của gia đình nhân loại.

Thật vậy, điều có thể nhận thấy rõ ràng là các dân tộc ngày càng hợp nhất hơn, những con người thuộc nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác biệt ngày càng liên kết với nhau chặt chẽ hơn, đồng thời mỗi cá nhân cũng có ý thức trách nhiệm sâu sắc hơn. Vì thế, để thiết lập và củng cố mối tương giao an hoà và thuận hảo giữa cộng đồng nhân loại, quyền tự do tôn giáo khắp nơi trên hoàn cầu cần phải được thừa nhận với sự bảo trợ hữu hiệu của luật pháp, đồng thời những bổn phận và quyền lợi tối thượng của con người trong việc sống đạo giữa xã hội cũng phải được tôn trọng.

Nguyện xin Thiên Chúa là Cha của mọi người, ban cho gia đình nhân loại, khi chú tâm thực thi nguyên tắc tự do tôn giáo trong cộng đồng xã hội, nhờ ân sủng Chúa Kitô và quyền năng Chúa Thánh Thần, được đạt tới tự do cao quý và vĩnh cửu “trong vinh quang của con cái Thiên Chúa” (Rm 8,21).

Tất cả và từng điều được ban bố trong Tuyên Ngôn này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 7 tháng 12 năm 1965
Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo
(Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)

------------------------------------------------------------------------

[8] x. LACTANTIUS, Divinarum Institutionum, c. V, 19: CSEL 19, tr. 463-464,465: PL 6, 614 và 616 (ch. 20); T. AMBRÔSIÔ, Epistola ad Valentianum Imp. ep. 21: PL 16, 1005; T. AUGUSTINÔ, Contra litteras Petiliani, c. II, ch. 83: CSEL 52, tr. 112: PL 43, 315; x. C. 23, q. 5, c. 33 (xb. Friedberg, cột 939); T. AUGUSTINÔ, Epistola 23: PL 33, 98; T. AUGUSTINÔ, Epistola 34: PL 33, 132; T. AUGUSTINÔ, Epistola 35: PL 33, 135; T. GRÊGÔRIÔ CẢ, Epistola ad Virgilium et Theodorum Episcopos Massili„ Galliarum, Registrum Epistolarum, I, 45: MGH, Epistola 1, tr. 72: PL 77, 510-511 (quyển I, ep. 47); T. GRÊGÔRIÔ CẢ, Epistola ad Ioannem Episcopum Constantinopolitanum, Registrum Epistolarum, III, 52: MGH, Epistola 1, tr. 210: PL 77, 649 (quyển III, ep. 53); x. D. 45, c.1 (xb. Friedberg, cột 160); CĐ TOLET. IV, c.57; Mansi 10, 633; x. D. 45, c.5 (xb. Friedberg, cột 161-162); CLÊMENTÊ III: X, V, 6, 9 (xb. Friedberg, cột 774); INNÔCENTIÔ III, Epistola ad Arelatensem Archiepiscopum, X, III, 42, 3 (xb. Friedberg, cột 646).

[9] x. Giáo Luật, 1351; PIÔ XII, Huấn từ cho các vị Giám chức cũng như các viên chức và tuỳ viên của Toà Thượng Thẩm Rôma 6.10.1946: AAS 38 (1946), tr. 394; PIÔ XII, Thông điệp Mystici Corporis, 29.6.1943: AAS 35 (1943), tr. 243.

[10] x. Ep 1,5.

[11] x. Ga 6,44.

[12] x. Ga 13,13.

[13] x. Mt 11,29.

[14] x. Mt 11,28-30; Ga 6,67-68.

[15] x. Mt 9,28-29; Mc 9,23-24; 6,5-6; PHAOLÔ VI, Thông điệp Ecclesiam Suam, 6.8.1964, AAS 56 (1964), tr. 642-643.

[16] x. Mt 11,20-24; Rm 12,19-20; 2 Ts 1,8.

[17] x. Mt 13,30 và 40-42.

[18] x. Mt 4,8-10; Ga 6,15.

[19] x. Is 42,1-4.

[20] x. Ga 18,37.

[21] x. Mt 26,51-53; Ga 18,36.

[22] x. Ga 12,32.

[23] x. 1 Cr 2,3-5; 1 Ts 2,3-5.

[24] x. Rm 14,1-23; 1 Cr 8,9-13; 10,23-33.

[25] x. Ep 6,19-20.

[26] x. Rm 1,16.

[27] x. 2 Cr 10,4; 1 Ts 5,8-9.

[28] x. Ep 6,11-17.

[29] x. 2 Cr 10,3-5.

[30] x. 1 Pr 2,13-17.

[31] x. Cv 4,19-20.

[32] x. LÊÔ XIII, Thư Officio sanctissimo, 22.12.1887), AAS 20 (1887) tr. 269; LÊÔ XIII, Thư Ex Litteris, 7.4.1887: AAS 19 (1886), tr. 465.

[33] x. Mc 16,15; Mt 28,18-20; PIÔ XII, Thông điệp Summi Pontificatus, 20.10.1939: AAS 31 (1939), tr. 445-446.

[34] x. PIÔ XI, Thư Firmissimam Constantiam, 28.3.1937: AAS 29 (1937), tr. 196.

[35] x. PIÔ XII, Huấn từ Ci riesce, 6.12.1953: AAS 45 (1953), tr. 802.

[36] x. PIÔ XII, Sứ điệp truyền thanh, 23.3.1952: AAS 44 (1952), tr. 270-278.

[37] x. Cv 4,29.

[38] x. GIOAN XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, 11.4.1963: AAS 55 (1963), tr. 299-300.

[39] x. GIOAN XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, 11.4.1963: AAS 55 (1963), tr. 295-296.

zalo
zalo