Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa - Năm C
VÌ SAO ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA?
(Lc 3,15-16.21-22)
Bản Văn và dịch sát nghĩa
Hy Lạp | Việt |
15 Προσδοκῶντος δὲ τοῦ λαοῦ καὶ διαλογιζομένων πάντων ἐν ταῖς καρδίαις αὐτῶν περὶ τοῦ Ἰωάννου, μήποτε αὐτὸς εἴη ὁ χριστός,
16 ἀπεκρίνατο λέγων πᾶσιν ὁ Ἰωάννης· ἐγὼ μὲν ὕδατι βαπτίζω ὑμᾶς· ἔρχεται δὲ ὁ ἰσχυρότερός μου, οὗ οὐκ εἰμὶ ἱκανὸς λῦσαι τὸν ἱμάντα τῶν ὑποδημάτων αὐτοῦ· αὐτὸς ὑμᾶς βαπτίσει ἐν πνεύματι ἁγίῳ καὶ πυρί·
17 οὗ τὸ πτύον ἐν τῇ χειρὶ αὐτοῦ διακαθᾶραι τὴν ἅλωνα αὐτοῦ καὶ συναγαγεῖν τὸν σῖτον εἰς τὴν ἀποθήκην αὐτοῦ, τὸ δὲ ἄχυρον κατακαύσει πυρὶ ἀσβέστῳ.
18 Πολλὰ μὲν οὖν καὶ ἕτερα παρακαλῶν εὐηγγελίζετο τὸν λαόν.
19 Ὁ δὲ Ἡρῴδης ὁ τετραάρχης, ἐλεγχόμενος ὑπ᾽ αὐτοῦ περὶ Ἡρῳδιάδος τῆς γυναικὸς τοῦ ἀδελφοῦ αὐτοῦ καὶ περὶ πάντων ὧν ἐποίησεν πονηρῶν ὁ Ἡρῴδης,
20 προσέθηκεν καὶ τοῦτο ἐπὶ πᾶσιν [καὶ] κατέκλεισεν τὸν Ἰωάννην ἐν φυλακῇ.
21 Ἐγένετο δὲ ἐν τῷ βαπτισθῆναι ἅπαντα τὸν λαὸν καὶ Ἰησοῦ βαπτισθέντος καὶ προσευχομένου ἀνεῳχθῆναι τὸν οὐρανὸν
22 καὶ καταβῆναι τὸ πνεῦμα τὸ ἅγιον σωματικῷ εἴδει ὡς περιστερὰν ἐπ᾽ αὐτόν, καὶ φωνὴν ἐξ οὐρανοῦ γενέσθαι· σὺ εἶ ὁ υἱός μου ὁ ἀγαπητός, ἐν σοὶ εὐδόκησα. (Lk. 3:15-22 BGT) | 15 Khi dân đang trông chờ và tất cả tự hỏi về ông Gioan, liệu có phải ông là Đấng Kitô?
16 Để trả lời, Gioan nói cùng tất cả: “Tôi dìm anh chị em bằng nước, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi đang đến, tôi không xứng cởi quai dép của Người, Người sẽ dìm anh chị em trong Thánh Linh và lửa
17 Đấng có cái chĩa trong tay Người để làm sạch lúa đã tuốt của Người và để thu gom lúa vào kho của Người, còn trấu Người đốt đi với lửa không hề tắt.
18 Ông còn khuyến khích nhiều điều khác, và cứ rao giảng tin mừng cho dân.
19 Nhưng tiểu vương Erodes, Ông vạch trần [tội lỗi] bởi vì Erodias là vợ của anh ông và vì tất cả những điều xấu mà Erodes đã làm.
20 Thêm vào tất cả những điều này, ông còn bỏ tù Gioan.
21 Sau khi tất cả dân chúng đã chịu đã được dìm rồi, Đức Giêsu cũng được dìm và khi Người đang cầu nguyện, trời mở ra.
22 và Thánh Linh đi xuống trên Người như hình dáng con chim bồ câu, và có tiếng từ trời: “Con là Con Ta, người Con yêu dấu, nơi Con, Ta hài lòng. |
Bối cảnh
Lc 3,15-22 nằm trong bối cảnh những trình thuật về sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả (3,1-22). Sứ vụ rao giảng của ông khép lại khi ông bị vua Erodes bỏ tù vì dám vạch trần sự thật về cuộc hôn nhân bất hợp pháp giữa nhà vua với vợ của anh mình. Đây là đoạn cuối trong hành trình rao giảng và làm Phép Rửa (dìm), trong đó đỉnh cao có thể là việc ông làm Phép Rửa (dìm) cho Đức Giêsu. Chủ đề “dân đang mong chờ Đấng Mêsia, nối kết với lịch sử của dân IsraEL trong Cực Ước, nhất là vào thời Gioan Tẩy Giả. Phép Rửa (dìm) trong Thánh Thần và lửa nối kết đến những chủ đề trong Tin Mừng Nhất Lãm về sự phán xét và thanh tẩy. Đây cũng là chủ đề nổi bật trong sách Công Vụ Tông Đồ. Chủ đề Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là chủ đề quan trọng bậc nhất trong các sách Tin Mừng. Chúa Ba Ngôi cũng là một chủ đề rất quan trọng. Việc xác nhận Đức Giêsu là Con liên kết chặt chẽ với trình thuật Biến Hình của Đức Giêsu, nơi đó Đức Giêsu cũng được chứng nhận là Con. Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu như là hình ảnh Thiên Chúa xức dầu Người để Người bắt đầu sứ vụ của Đấng Mêsia ngay sau đó. Đó cũng là hình ảnh của sự sáng tạo mới.
Cấu trúc
Gioan và Đấng Kitô (15-18) Gioan: Rửa (dìm) bằng nước Đấng Kitô: Quyền năng hơn Gioan: Không xứng cởi quai dép của Đấng Kitô Đấng Kitô: Rửa (dìm) trong Thánh Linh và lửa (xét xử) Gioan tiếp tục khích lệ và rao giảng (18) Gioan và Erodes (19-20) Gioan vạch trần tội của vua Erodes Vua bỏ tù Gioan Đấng Kitô, Thánh Linh và Chúa Cha (21-22) Đức Giêsu cũng chịu Phép Rửa (dìm) Đang khi Người cầu nguyện, trời mở ra Thánh Linh đi xuống trên Người như hình dáng con chim bồ câu, Tiếng từ trời: “Con là Con Ta, người Con yêu dấu, nơi Con, Ta hài lòng. |
Một số điểm chú giải[1]
1. Dân đang trông chờ: Hình ảnh dân đang trông chờ đưa trình thuật vào trong dòng lịch sử của dân IsraEL. Qua bao nhiêu thăng trầm bị xâm chiếm bởi nhiều đế quốc. Họ đã được trở về từ Babylon từ 538. Tuy nhiên, họ vẫn ở dưới sự cai trị của đế quốc Ba Tư, rồi sau đó đến đế chế Hy Lạp. Thời điểm hiện tại của trình thuật họ lại đang ở dưới ách đô hộ của đế quốc Rôma. Bối cảnh lịch sử mà Luca giới thiệu từ đầu chương ba (Năm thứ 15 triều Xêda Tibêriô, Philatô, lãnh đạo Juđêa, Hêrôđê tiểu vương của Galilê...), nhắc nhở độc giả về hoàn cảnh không mấy sáng sủa của dân. Trong phần trả lời cho câu hỏi “chúng tôi phải làm gì?” của ba thành phần tiêu biểu của dân, đặc biệt là cho nhóm những người thu thuế và những quân nhân, cũng có thấy phần nào bức tranh xã hội ảm đạm, nơi đó thiếu sự chia sẻ cơm áo. Trong xã hội đó còn những thành phần tham lam, gây đau khổ cho chính đồng bào mình để tìm lợi ích kinh tế cho mình. Trong hoàn cảnh ấy, người ta càng mong mỏi hơn về một Đấng Mêsia thời cánh chung, Đấng mang lại cho họ một cuộc sống bình an, thịnh vượng, hạnh phúc, ấm no thật sự.
2. Đấng Kitô: Khởi đầu Gioan được giới thiệu như là một ngôn sứ thời cánh chung, một tiếng người hô trong hoang địa (3,3-5). Sau đó, những người thu thuế xem ông như là một thầy dạy (3, 12). Trong lòng dân chúng tự hỏi biết đâu ông cũng chính là Đấng Kitô mà họ đang mong đợi. Đấng Kitô (Khristos) trong tiếng Hy Lạp, có gốc trong tiếng Do Thái là (Masiah), có nghĩa là “người được xức dầu”. Trong truyền thống Cựu Ước, danh xưng này không có một nghĩa duy nhất, nhưng nó dùng để diễn tả nhiều loại người khác nhau được Chúa xức dầu. Nó thường được dùng cho vua IsraEL (Saul, Đavid, hậu duệ của Đavid), nhưng thỉnh thoảng nó cũng được dùng cho những người khác (Thượng Tế, thậm chí Cyrus, vua Ba Tư). Tuy nhiên, trong những thế kỷ cuối cùng tiền Kitô giáo của Do Thái Giáo, đã xuất hiện một niềm mong chờ Đấng Mêsia, một vị vua thuộc dòng Đavid, hay là một Đấng được xức dầu do Chúa gửi đến nhằm phục hồi vương quốc IsraEL. Vào thời Đức Giêsu, danh xưng Mêsia có thể diễn tả một Đấng được xức dầu, được mong đợi do Chúa gửi đến trong truyền thống Đavid, vua hay chính trị nhằm phục hồi IsraEL hay bày tỏ vinh quang và triều đại Thiên Chúa[2]. Đấng được xức dầu là niềm hy vọng quan trọng nhất của người IsraEL và Đấng được xức dầu trong ý niệm của họ là một vị vua bách chiến bách thắng như vua Đavid vậy.
3. Không xứng đáng cởi quai dép: Thắc mắc trong lòng dân chúng chính là cơ hội để cho Gioan bày tỏ căn tính của mình và giới thiệu về Đấng Kitô. Có hai hình thức Gioan phân biệt giữa ông và Đấng Kitô. Thứ nhất, về vị thế. Đấng Kitô dù đến sau, nhưng quyền năng hơn ông. Khoảng cách giữa vị thế của ông và của Đấng Kitô được ông mô tả bằng hình ảnh “không xứng đáng cởi quai dép cho”. Cởi quai dép là hành động của một người nô lệ, tôi tớ dành cho ông chủ của mình[3]. Gioan ngụ ý rằng, Gioan không xứng đáng làm tôi tớ của của Đấng Kitô. Dân chúng nghĩ ông là Đấng Kitô, nhưng người mà dân chúng thấy vẫn chưa xứng đáng là tôi tớ của Đấng Kitô. Điều Gioan cảm nghiệm có thể là sự thật nếu so sánh giữa ông và Đức Giêsu. Tuy vậy, nó vẫn cho thấy một sự khiêm hạ đúng mực của vị ngôn sứ tiền hô của Chúa. Đức Giêsu cũng dành cho Gioan một sự tôn trọng không kém khi nói rằng: “Trong số những người phàm đã lọt lòng mẹ, không hề có ai cao trọng hơn Gioan Người Dìm” (Lc 7, 28; Mt 11, 11). Ngoài ra, Đức Giêsu còn nhìn nhận Gioan là một vị ngôn sứ, mà còn hơn cả ngôn sứ nữa (x. Lc 7, 26).
4. Rửa (dìm) bằng nước - Rửa (dìm) trong Thánh Linh và lửa: điểm phân biệt chính yếu giữa Gioan và Đấng Kitô là Phép Rửa. Trong khi Gioan rửa bằng nước, hay dìm người ta trong nước, Đấng Kitô rửa người ta trong Thánh Linh và lửa. Máccô chỉ nói đến Phép Rửa trong Thánh Linh, trong khi cả Mátthêu và Luca thêm vào “lửa” (x. Mt 3, 11; Mc 1, 8). Cả hai hình ảnh lửa và Thánh Linh đều bao hàm một cuộc thanh tẩy cánh chung mà những hối nhân phải trải qua bởi lối sống vô luân và thiếu vắng Chúa[4]. Phép Rửa bằng cách dìm trong nước của ông Gioan tại sông Giorđan có rất nhiều giá trị biểu tượng. Trước hết, dòng sông Giorđan là nơi mà dân IsraEL đã băng qua để tiến vào đất Canaan. Trước khi băng qua sông Giorđan, họ cũng đã băng qua nước Biển Sậy ráo chân (Xh 14). Nước cũng chính là hình ảnh thanh tẩy và hủy diệt những con người tội lỗi và cứu sống gia đình công chính của ông Nôê trong câu chuyện Lụt Hồng Thủy (St 6 – 9). Gioan đang chuẩn bị cho một dân mới băng qua sông Giorđan đi về miền đất hứa mới. Tuy nhiên, Phép Rửa (dìm) trong nước phải dẫn đến Phép Rửa (dìm) trong Thánh Linh và lửa. Hình ảnh lửa được nhắc đến cả phía trước và phía sau đoạn này như là một phương tiện trừng phạt. Trước đó, Gioan nói rằng “cây rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (3, 9). Sau đó, Gioan nói rằng Đấng Kitô sẽ đốt vỏ trấu với lửa không hề tắt (3, 17). Xem ra, “Phép Rửa (dìm) trong lửa” không tránh khỏi cách hiểu như là một sự phán xét và trừng phạt[5]. Trong các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, Mátthêu nhiều lần dùng hình ảnh “lửa” để diễn tả hình phạt cánh chung (“Ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì sẽ bị lửa hỏa ngục thiêu đốt” [5, 22]; “Cây nào không sinh quả tốt thì bị chặt đi và quăng vào lửa” [7, 19]). Tuy nhiên, lửa cũng có ý nghĩa thanh luyện và thanh tẩy con người. Ngôn sứ Malakhi nói đến Chúa đến trong thời cánh chung. Người như lửa luyện kim và như thuốc tẩy của thợ giặt (Ml 3, 2). Ngôn sứ Dacaria nói đến việc Chúa cho một phần ba dân qua lửa, luyện họ như người ta luyện bạc và thử chúng như thử vàng” (Dc 13, 9). Đức Giêsu của Luca cũng nhắc đến lửa thanh luyện và thử thách khi Người nói “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy ước chi lửa ấy đã bùng lên. Thầy còn một Phép Rửa nữa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 49)[6]. J. Fitzmyer cho rằng đây là Phép Rửa (dìm) bằng lửa mà Đức Giêsu không chỉ tiến hành cho người khác nhưng chính Người cũng phải trải qua. Đấng là phép rửa với lửa phải đối diện với thử thách và khủng hoảng mà hình ảnh ấy diễn tả[7]. Phép rửa trong Thánh Linh đặc biệt được nhấn mạnh trong tác phẩm của Luca. Trong truyền thống Luca – Công Vụ, Phép Rửa (dìm) trong Thánh Linh và lửa chắc chắn nhắc nhớ đến biến cố trong ngày Lễ Ngũ Tuần, trong đó Thánh Linh đã xuất hiện như hình lưỡi lửa đậu trên từng người (Cv 2,3.19). Ngay sau biến cố Ngũ Tuần, ông Phêrô đã rao giảng và kêu gọi: “Anh chị em hãy hoán cải, và mỗi người chịu Phép Rửa (dìm) nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội và anh chị em sẽ nhận được ân sủng là Thánh Linh” (Cv 2, 38). Kế đến, trong câu chuyện ông Phêrô làm phép rửa cho gia đình ông Cornêlio, Thánh Linh đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe ông Phêrô rao giảng trong nhà ông Cornelio. Cuối cùng, ông đã thốt lên “Những người này đã nhận được Thánh Linh cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm Phép Rửa (dìm) cho họ? Rồi ông truyền làm Phép Rửa (dìm) cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô.” (Cv 10,47-48). Thêm vào đó, Công Vụ ghi lại sự phân biệt giữa Phép Rửa (dìm) của Gioan Tẩy Giả và Phép Rửa (dìm) nhân danh Đức Giêsu có sự ngự xuống của Thánh Linh (x. Cv 19,1-7). Trong cả hai trường hợp, họ đều chịu Phép Rửa (dìm) nhân danh Đức Giêsu, nhưng điều có Thánh Linh ngự xuống trên họ. Khi Đức Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Giorđan, Thánh Linh cũng ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu (Lc 3, 22). Theo lời của Gioan, Đấng đã sai ông đi làm Phép Rửa (dìm) trong nước đã bảo ông rằng “ngươi thấy Thánh Linh đi xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm Phép Rửa (dìm) trong Thánh Linh” (Ga 1, 33). Rửa trong Thánh Linh hẳn là được Thánh Linh ngự xuống, ở lại, thánh hóa, biến đổi, và hướng dẫn mọi hành vi của người được thanh tẩy. Chính Đức Giêsu sau khi chịu Phép Rửa (dìm), được đầy tràn Thánh Linh từ sông Giorđan trở về, đã được Thánh Linh dẫn đi trong sa mạc, chịu quỷ cám dỗ (Lc 4,1-2). Dường như Đức Giêsu cũng trải qua sự thanh tẩy của dân IsraEL trong hoang địa và của Ađam trong vườn Êđen. Cuộc thanh luyện, sự thử thách về lòng trung thành và vâng phục của Đức Giêsu lên đến cao điểm và hoàn tất trong cuộc Thương Khó của Người. Theo thánh Phaolô, các tín hữu được “tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính, nhờ danh Đức Giêsu Kitô và nhờ Thánh Linh của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cr 6, 11). Sứ vụ làm Phép Rửa (dìm) trong Thánh Linh được Đức Giêsu hứa trao cho các môn đệ trước biến cố Ngũ Tuần: “Gioan làm Phép Rửa (dìm) với nước, nhưng trong vài ngày nữa anh em sẽ chịu Phép Rửa (dìm) trong Thánh Linh” (Cv 1, 5; 11, 16).
5. Làm sạch lúa đã tuốt: Đây là những hình ảnh diễn tả những hành động của Đấng Mêsia trong thời cánh chung[8]. Hình ảnh này liên hệ chặt chẽ với hình ảnh mà Gioan đã cảnh báo trước đó: “Cây rìu đã kề sát gốc cây, bất kỳ cây nào không sinh hoa trái tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Lc 3, 9). Tác giả Mátthêu có nhiều dụ ngôn diễn tả hình ảnh cuộc phán xét tương tự. Trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa, đến ngày mùa ông chủ sẽ cho gom cỏ lùng lại bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho (x. Mt 13, 30). Đức Giêsu giải thích dụ ngôn cỏ lùng và kết luận “người ta nhặt lấy cỏ lùng và lấy lửa đốt đi thế nào, thì ngày tận thế cũng xảy ra như vậy” (Mt 13, 40). Trong dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển. Sau khi lưới kéo lên được cả cá xấu lẫn cá tốt, người ta nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đức Giêsu kết luận rằng “ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt người xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính rồi quăng chúng vào lửa” (x. Mt 13,49-50). Dĩ nhiên, điểm tập trung là ở lúa tốt được thu vào chứ không phải là “lúa lép” bị đốt đi. Thiên Chúa luôn mong ước tất cả đều là lúa tốt và được đưa vào “kho”[9]. Tuy nhiên, thực tế, vẫn có những vỏ trấu bị thải ra và đốt đi. Đó là chọn lựa tự do của mỗi người.
6. Cứ rao giảng tin mừng: Động từ rao giảng tin mừng (tin vui) (euangelizesthai) được dùng ở thì chưa hoàn thành, diễn tả một hành động lặp lại liên tục hoặc kéo dài. Tuy nhiên, vì nội dung tin vui thì không được đề cập đến nên có nhiều cách hiểu khác nhau. M.D. Hamm cho rằng Luca kết với câu tóm tắt về việc Gioan rao giảng Tin Mừng nghe có vẻ kỳ quặc. Ông đề nghị cách hiểu Tin Mừng trong bối cảnh này là sau khi đã đốn hạ những cây không có trái tốt và đốt đi những vỏ trấu vô ích, sau tất cả, những hình ảnh của công lý Thiên Chúa, Tin Mừng của Chúa làm cho thời kỳ lưu đày kết thúc, cuộc trở về đất hứa mới, tất cả xác phàm thấy ơn cứu độ của Chúa. Tuy nhiên, tiến trình giải thoát này vẫn cần sinh những hoa trái của lòng hoán cải, đáp ứng nhu cầu của cơ bản (cơm ăn áo mặc) của con người, xóa sạch những bất công, lạm dụng quyền lực trong xã hội[10]. L. Johnson đơn giản cho rằng vì Gioan là một vị ngôn sứ trong dân nên thông điệp của ông có giá trị Tin Mừng[11]. Theo J. Green, động từ “rao giảng tin vui” là một lối diễn tả Luca dùng để mô tả Gioan như là sứ giả vui được Isaia nói đến. Nó bao gồm tiếng hô trong sa mạc đã được trích lại trong Lc 3,3-5. Is 52, 7 nói đến nét đẹp của bước chân sứ giả mang tin vui, công bố sự bình an, loan báo ơn cứu độ, người nói với Sion rằng “Chúa của ngươi hiện trị”[12]. J. Fitzmyer cho rằng động từ này chỉ nên hiểu là rao giảng chứ không có nghĩa là “rao giảng tin mừng.” Trong bối cảnh này, Gioan được mô tả như người cổ vũ, dùng nhiều lời khích lệ và giảng cho dân[13]. Nếu đọc Tin Mừng Mátthêu, độc giả sẽ thấy thông điệp Tin Mừng mà Gioan rao giảng giống y chang như là thông điệp của Đức Giêsu: “Ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê rằng: ‘Anh chị em hãy hoán cải vì Nước Trời đã đến gần’” (Mt 3,1-2)// “Lúc ấy Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: ‘Anh chị em hãy hoán cải, vì Nước Trời đã đến gần’” (Mt 4, 17). Trong bối cảnh của Lc 3,1-20, tin mừng mà Gioan rao giảng rất có thể là những chỉ dẫn cho hành trình hoán cải như ông đã trình bày cho ba nhóm người (đám đông, những người thu thuế và các quân nhân) và cũng có thể là những thông tin về Đấng Mêsia.
7. Erodes – Erodias: Tiểu vương Erodes, tên đầy đủ là Erodes Antipas, một trong ba người con của Erodes Cả. Ông làm tiểu vương vùng Galilê sau khi vua cha qua đời, trong khoảng thời gian từ năm 4 BCE – 39 CE. Archelaus làm tiểu vương vùng Giuđêa (Mt 2, 22) và Philípphê làm tiểu vương vùng Iturê và Trakhônít (Lc 3, 1; Mc 6, 17). Antipas xuất hiện nhiều lần với danh xưng là Erodes trong thời Đức Giêsu thi hành sứ vụ công khai như là tiểu vương vùng Galilê (Lc 3, 1; Cv 13, 1; Mc 8, 15). Ông là người đã bỏ tù Gioan Tẩy Giả (Lc 3, 20) và rồi cho chém đầu ông Gioan trong ngục (Mt 14,3-12; Mc 6,17-29; Lc 3,19-20). Sau đó, khi thấy Đức Giêsu nổi tiếng, ông nghĩ rằng Đức Giêsu là Gioan Tẩy Giả đã sống lại (Mt 14,1-2; Mc 6,14-16; Lc 9,7-9). Luca là tác giả quan tâm đặc biệt đến gia đình vua Erodes. Ông là tác giả duy nhất cho biết Gioanna, vợ của một quan chức của vua Erodes đi theo phục vụ Đức Giêsu (Lc 8, 3). Chỉ có trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu nhận xét tiểu vương Erodes như là con cáo (Lc 13,31-33) và xuất hiện trước Tiểu Vương trong bối cảnh vụ xét xử (Lc 23,6-15). Theo lời của quan Philatô, Erodes nhìn nhận rằng Đức Giêsu vô tội (Lc 23, 15). Trong bối cảnh này, Luca tường thuật việc Gioan Tẩy Giả vạch trần tội kết hôn bất hợp pháp và nhiều tội khác. Theo Luca, bỏ tù Gioan cũng là một tội, thêm vào bao nhiêu tội khác[14]. Luca đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh Gioan đang rao giảng Phép Rửa Hoán Cải để được ơn tha thứ để cho thấy rằng Gioan cũng muốn Erodes hoán cải. Tuy nhiên, ông chẳng những không muốn hoán cải mà còn bỏ tù, bịt miệng người đã rao giảng cho mình[15].
Erodes Antipas lập gia đình với con gái của vua Aretas IV. Sau đó ông bỏ bà này để lấy Erodias. Erodias là con gái của ông bà Bernice và Aristobulus IV (cháu ruột của Erodes cả, con của Mariamme I). Bà là vợ chính thức của một hoàng thân tên Erodes (con bà Mariamme II), người anh cùng cha khác mẹ với Erodes Antipas (con bà Malthake). Bà là người tác động trực tiếp trên cái chết của Gioan Tẩy Giả (Mt 14,3-12; Mc 6,17-29). Cũng như Erodes, Erodias cũng được mời gọi hoán cải qua lời mời gọi của Gioan, nhưng bà cũng từ chối và âm mưu trả thù ông[16].
---Còn tiếp---
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
Nguồn: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2022/01/vi-sao-uc-giesu-chiu-phep-rua-chu-giai.html (cập nhật ngày 11/10/2025)
--------------------------------------------------------------------
[1] Mục 1-6, x. J.P.D. Thạch, “Những Hoa Trái của Lòng Hoán Cải. Chú Giải Tin Meng CN III MV C (Lc 3,10-18) [LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: NHỮNG HOA TRÁI CỦA LÒNG HOÁN CẢI. Chú giải Tin Mừng CN III MV C (Lc 3,10-18) (josephpham-horizon.blogspot.com)].
[2] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 198; xem thêm về “Đấng Kitô” trong J.P.D. Thạch, “Khởi Đầu Tin Vui của Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa”, [LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: KHỞI ĐẦU TIN VUI CỦA ĐỨC GIÊSU KITÔ CON THIÊN CHÚA (josephpham-horizon.blogspot.com)].
[3] J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 151.
[4] J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 155.
[5] M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (Ed. R.J. Clifford et al.) (New York 2018) 1045.
[6] J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 708.
[7] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 995.
[8] “It is used here as an eschatological image of the sorting out of human beings according to their worth, to be accomplished by him who is the more powerful one” (J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 474).
[9] J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 155.
[10] M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary, 1046.
[11] L.T. Johnson, The Gospel of Luke (SP3; Collegeville 2005) 66.
[12] J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids, 1997) 183.
[13] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 475.
[14] Josephus (Ant. 18.5,2 § 119) recounts that John was taken to the fortress Machaerus in chains. Originally built by Alexander Janneus on a precipitous, solitary peak on the east side of the Dead Sea between the Wadi Zerqa Maʿin and the Wadi el-Mojib, it was magnificently restored by Herod the Great (J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 478).
[15] X. C. Bloomberg. “Herod”, New International Encyclopedia of Bible Characters. The Complete Who’s Who in the Bible (ed. P.D. Garner) (Grand Rapids 1995).
[16] X. P.D. Gardner. “Herodias”, New International Encyclopedia of Bible Characters; J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 477.