Ngày tháng: 18/11/2024
Đang truy cập: 17

Tính Đa Dạng Trong Thần Học Công Giáo Sau Vatican II – Phần 2/2 - Fr Joseph Tân Nguyễn, ofm

TÍNH ĐA DẠNG TRONG THẦN HỌC CÔNG GIÁO SAU VATICAN II - Phần 2/2

Fr Joseph Tân Nguyễn, ofm

NO PHOTO

CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Với cải cách của Vatican II, thần học Công giáo một lần nữa mở rộng cửa sẵn sàng đối thoại với thế giới bên ngoài. Nhưng khi cánh cửa sổ mở ra để đón luồng “Thần khí” mới, thì quang cảnh bên ngoài không được lãng mạn cho lắm. Không giống như các bậc tiền bối Kinh Viện, thần học Công Giáo ngày nay ý thức rằng nó phải thi thố trong một bối cảnh đa dạng và phê phán triệt để. Các “dấu hiệu của thời đại” (signs of the times) cho thấy rằng thần học phải đối đầu với một thế giới đầy dẫy bất công, đau khổ vô nghĩa, và tệ nạn xã hội, môi trường gây ra bởi tham vọng vô biên của con người đang nắm trong tay nền khoa học và kỹ thuật cao nhất trong lịch sử nhân loại. Các khuynh hướng mới trong thần học Công Giáo sẽ được thành hình qua cách thần học gia bắt nhịp cầu tương quan giữa gia sản Kitô và kinh nghiệm sống đức tin trong thế giới đầy mâu thuẫn phức tạp hiện nay.

Một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nhận diện bốn nỗ lực hay phát triển mới trong thần học sau Vatican II: (1) “thần học tiên nghiệm” với khuynh hướng quay trở về với chủ thể, (2) “thần học giải thích” cố gắng xây dựng căn tính Kitô dựa trên sự tương quan liên đới giữa các kinh nghiệm đức tin khác nhau, (3) “thần học thực hành” với vai trò của “praxis” trong các thần học chính trị, thần học giải phóng và thần học phụ nữ, và (4) “thần học hậu hiện đại” phê phán não trạng duy nền tảng đang tiềm tàng trong ngôn ngữ và lý tính tôn giáo hiện tại. Bên dưới các khuynh hướng mới này là những luồng sóng ngầm đã đưa đẩy bánh lái của con thuyền thần học. Đó là những thay đổi về các mô phạm tri thức (paradigm): từ “hiện tượng-hiện sinh” đến “ngôn ngữ,” rồi đến “xã hội phê phán”, và cuối cùng là “hậu hiện đại.” Bây giờ chúng ta sẵn sàng để quan sát các khuynh hướng thần học mới.

THẦN HỌC TIÊN NGHIỆM

Trước tiên, với cải cách của Vatican II, thần học gia Công Giáo được khuyến khích trở về với “cội nguồn” (Kinh Thánh, Tín lý cổ truyền, v.v.) để tìm giải pháp cho các vấn nạn xã hội đương thời. Về phương pháp thì hoàn toàn lệ thuộc vào các chuyên gia thần học. Trong lúc các đồng nghiệp Tin Lành ở mức độ khác nhau thiếu tin tưởng vào lý tính như là công cụ để cập nhật hóa thần học; thần học gia Công giáo trái lại đã không ngần ngại quay “trở về với chủ thể.” Họ khai thác các điều kiện tiên nghiệm của chủ thể tính với mục đích mở rộng chân trời siêu nghiệm mà qua đó lịch sử mạc khải của Thiên Chúa và sự tiếp cận của con người gặp nhau. Từ đó họ dùng các phạm trù hiện tượng luận để mô tả chân trời siêu nghiệm này.

Rahner đã có công kết nối hai chiều hướng có vẻ đối nghịch: triết tân-kinh viện (neo-Scholasticism) và hữu thể-giải thích luận (ontological hermeneutics) của Heidegger vào một cụm từ gọi là “tiên nghiệm-Tôma” (transcendental Thomism). Đặc điểm của cách tổng hợp trên đây chính là khuynh hướng “trở về với chủ thể” trong thần học tiên nghiệm. Khuynh hướng này khẳng định rằng con người cảm nghiệm tri thức và tự do như là một loại cảm nghiệm siêu việt có một chân trời tuyệt đối và vô giới hạn, và cảm nghiệm sự gần kề thánh thiêng (divine-nearness) như là “ân sủng” hoặc điều kiện để chủ thể tính trở thành hiện thực. Tương tự như Thánh Tôma đã nhận ra rằng mặc khải (siêu nhiên) không chỉ không mâu thuẫn với tri thức con người (tự nhiên) mà còn bổ túc cho giới hạn của tri thức, thì Rahner cũng lý luận rằng ân sủng hay sự gần kề thánh thiêng của Thiên Chúa chính là điều kiện tiên nghiệm để con người có thể mạnh dạn đi tìm ý nghĩa tối hậu trong lịch sử, vì chính lịch sử cũng đã được “cho nhưng không.” Như thế, Rahner đã vạch ra một hướng đi mới cho thế hệ thần học tiên khởi sau Vatican II. Hậu qủa của cách tiếp cận thần học này là một loại “nhân học” Kitô, xây dựng trên nền tảng hiện tượng luận khai thác chiều kích tiên nghiệm trong tri thức con người.

Tuy nhiên, loại linh đạo nhân học trên đây không thể giữ độc quyền lâu dài vì lẽ không phải mọi thần học gia sau Vatican đều đồng ý với cách Rahner tổng hợp Kant-Heidegger và chủ thuyết Tôma. Các thần học gia như Lonergan và Dulles (US) nhấn mạnh về khía cạnh cơ cấu và mô biểu của tri thức, và tầm quan trọng của khía cạnh này trong cách chủ thể tiếp cận tri thức thần học. Phương pháp tiên nghiệm của Rahner đã được bổ túc với phê phán duy thực (critical realism) của Lonergan hay lối dùng mô biểu (models) trong cách cấu trúc thần học của Dulles. Công trình thần học của Lonergan và Dulles là nỗ lực kết nối “nội dung” của mạc khải với “cơ cấu” của tri thức. Khởi điểm thần học của họ vẫn là chủ thể, nhưng đã thay thế “siêu nghiệm tính” bằng “thực nghiệm tính” (cơ cấu, mô biểu) trong cách chủ thể tiếp cận thực tại tối hậu. Và như thế, chủ thể không còn là một chân trời vô hạn và liên tục mà là kết quả của sự nối kết hay chắp vá của nhiều quá trình kinh nghiệm hoặc mô biểu cá biệt.

THẦN HỌC GIẢI THÍCH

Một khi “chủ thể” được hiểu như là một “cấu trúc”, thì tính trình thuật (narrative) của kinh nghiệm sẽ được nổi bật. Kinh nghiệm có chức năng tưong tự như “ngôn ngữ”, qua suy gẫm và phản tỉnh, kinh nghiệm có khả năng hồi tưởng hay tạo nên dự phóng cho tương lai (mimetic). Ví dụ, phản tỉnh về kinh nghiệm đau khổ hay bị áp bức đưa đến ý thức tự do của con người đang bị xúc phạm. Hoặc kinh nghiệm khám phá giới hạn của tri thức khoa học có thể hướng chúng ta đến chiều sâu của thực tại. Hậu quả của khuynh hướng “trở về với ngôn ngữ” (linguistic turn) này là một lối hiểu biết mới về khía cạnh tôn giáo tiềm tàng trong kinh nghiệm và ngôn ngữ con người. Tracy, kết nối giải thích học của Gadamer, phương pháp thực nghiệm của Lonergan và triết học ngôn ngữ với nhau để lý luận rằng có một “chiều kích tôn giáo” (religious dimension) được tỏ lộ qua kinh nghiệm và ngôn ngữ của các bản văn tôn giáo cổ điển và qua tính giới hạn của những câu hỏi khoa học, luân lý và triết học ngày nay. Thần học giải thích cần phải giải mã và nhận diện mối tương quan liên đới giữa các “chiều kích tôn giáo” đang hiện diện trong cả hai trục của thần học: Kinh Thánh và bối cảnh thế giới hiện tại.

Đặc điểm của khuynh hướng này là thay vì giới hạn tri thức luận vào các phạm trù siêu nghiệm trừu tượng như Rahner, các thần học gia giải thích nhắm vào sự phức tạp của nỗ lực trở thành chủ thể. Quá trình trở thành chủ thể phải đối mặt với các chân trời lịch sử đa dạng triệt để về tư tưởng và tín ngưỡng, đầy dẫy đau khổ và bất công vô nghĩa. Đứng trước các kinh nghiệm quá khác biệt như thế, hành trình trở thành một chủ thể tôn giáo sẽ không thể tiếp tục cách bình thường. Đối với Tracy và Schillebeeckx, thần học trở thành một loại giải thích học phê phán có khả năng hồi phục và nối kết hai trục của kinh nghiệm sống đức tin: kinh nghiệm được lưu lại trong ký ức lịch sử (Kinh Thánh và biểu tượng đức tin), và kinh nghiệm sống của bối cảnh thế tục ngày nay. Thần học muốn thiết lập căn tính đức tin Kitô dựa trên mối tương quan liên đới phê phán giữa hai trục kinh nghiệm này.

Do đó suy tư thần học không chỉ là việc phân định xem chúng ta cần phải làm gì dựa trên những gì đã được mạc khải qua Kinh Thánh. Cả hai trục kinh nghiệm của hiện tại và của Kinh Thánh đều có thể phê phán và bổ túc lẫn nhau hầu để tránh não trạng tuyệt đối hóa hoặc thần cách hóa cách diễn đạt đức tin của lịch sử. Schillebeeckx nhấn mạnh vào sự tương quan liên đới giữa viễn tượng Thiên Chúa là Đấng giải phóng con người trong Kinh Thánh với kinh nghiệm đau khổ vô nghĩa trong thế giới. Hans Kung và Rosemary Ruether đối chiếu kinh nghiệm con người trong cả hai trục qua cách tương đồng hoặc tương phản với nhau. Cả hai thần học gia này dùng phương pháp phê bình lịch sử để hồi phục tính đoàn sủng của ngôn sứ cho việc đối chiếu trong thần học giải thích.

THẦN HỌC THỰC HÀNH

Phương cách tương quan liên đới giữa hai trục “kinh nghiệm” trên đây vẫn có thể bị mù về một giả định mơ hồ đang chớm nở tại gốc rễ của thần học giải thích. Đó là, “kinh nghiệm” nào thật sự thích đáng cho việc tương quan liên đới này? Nỗ lực khẳng định căn tính Kitô dựa trên kết nối này có thực sự làm chứng cho tác động của Tin Mừng Kitô trên bối cảnh xã hội ngày nay chưa? Sự mơ hồ này gây nên ý thức mới về giới hạn của loại thần học được xây đựng trên nền tảng phê phán lý thuyết. Và như thế, khuynh hướng phê phán thần học thứ ba ra đời với khái niệm “thực hành” (praxis) của Metz. Ảnh hưởng bởi triết học của Blondel và thuyết phê phán xã hội (Ordo, Horkheimer), Metz chỉ trích phương pháp siêu nghiệm của Rahner như đã đốt giai đoạn trong hành trình khám phá hữu thể của “Dasein” và do đó không thể nhận diện hành trình này là một cấu trúc lịch sử được thành hình bởi chính “praxis” của cộng đoàn nhân loại.

Nếu thần học phải tiếp tục sứ mệnh làm chứng tá cho thực hành đức tin Kitô—một loại “praxis” được thôi thúc bởi niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa trong nỗ lực xóa bỏ bất công và đau khổ vô nghĩa hầu để mở rộng nước Chúa trên trần gian—thì thần học phải là một loại giải thích học mang tính chính trị. Thần học cần một loại thực hành (praxis) chính trị nếu nó muốn lột trần ý đồ thống trị trong phiên bản lý tính đang lên ngôi ở tây phương hiện đại. Nếu không, thần học sẽ đánh mất chức năng trở thành Tin Mừng phổ phát. Nhìn qua lăng kính phương pháp, giải thích học chính trị của Metz đã giới thiệu một làn chỉ đỏ mới qua khái niệm “praxis.” Thần học sẽ bị đánh giá dựa trên khả năng nó tác động lên “thực hành đức tin” trong bối cảnh xã hội và lịch sử và khả năng cụ thể hóa Tin Mừng giải phóng cho con người.

Một khi làn chỉ đỏ “praxis” được đưa vào suy tư thần học, cánh cửa rộng mở và đã có nhiều ứng dụng vào các bối cảnh cụ thể như: thần học chính trị Âu châu, thần học giải phóng Châu Mỹ Latin, thần học Da Đen ở Phi Châu, thần học Á đông và thần học Phụ nữ, etc. Khi các cộng đoàn Kitô cơ bản (base-community Christians) cầu nguyện và suy tư về “thực hành đức tin,” họ nhận thấy rằng thần học cần phải được bổ túc bằng "praxis" lột trần ý đồ bóc lột kinh tế của thiểu số đang thống trị. Và như thế, “praxis” đã giới thiệu vào thần học một nhạy cảm mới về các phân biệt giai cấp, chủng loại và phái tính đang tiềm tàng trong mọi hoạt động tri thức kể cả việc suy tư và sáng tác thần học. Từ đó, thần học có được một số “địa điểm” cụ thể để cho thực hành đức tin (praxis of faith) được thi thố. Nếu thần học không chỉ là cuộc đối thoại giữa hai trục kinh nghiệm sống đức tin (Kinh Thánh & bối cảnh hiện tại) mà còn là “praxis” của xây dựng Nước Chúa thì thần học trước tiên cần phải phê phán về chính thực hành của mình. Thần học giải phóng đã đáp ứng được nhu cầu cấp bách này.

THẦN HỌC HẬU - PHÊ PHÁN

Một khi thần học trở nên sân chơi để biện chứng lý thuyết và thực hành được thi thố, thì thần học không tránh khỏi dính líu vào các vấn đề đại chúng. Bước vào thập niên 80, các phong trào “Thiên Chúa đã chết” hay cách mạng chính trị không còn là chủ đề nóng bỏng nữa. Nhưng thế giới vẫn còn đang đối đầu với hiểm họa về sự cân bằng môi sinh đang bị tàn phá, nạn diệt chủng, hận thù tôn giáo và sắc tộc, khủng bố, võ khí giết người hàng loạt, etc. Thần học không thể đứng bên lề lịch sử, nhưng phải lên tiếng qua ngôn ngữ đại chúng để tiếng nói của mình được ghi nhận. Giá trị của thần học sẽ được đo lường trong bối cảnh đa văn hóa và ý thức hệ, vì khán giả của nó không chỉ là cộng đồng đức tin hay phụng vụ, mà là toàn thể thế giới. Các mô biểu triết học như “Kẻ khác” (The Other) hoặc “giải giới chủ thể” (de-centering of the subject) bắt đầu tìm vào khuôn viên của thần học và từ đó khái niệm “liên-chủ thể” (inter-subjective paradigm), kết nối với ngôn ngữ học, giải thích học, xã hội học được dùng như một mô biểu tri thức để khai triển thần học (Tracy, Fiorenza, Fox). Thần học phải thi thố chân lý của mình giữa bối cảnh đa dạng triệt để.

Khi đi tìm cách giải quyết vấn nạn đa dạng, các thần học gia cấp tiến có khuynh hướng đi quá xa, đặt nền tảng cho chân lý và tri thức luận của họ trên các triết học hoặc mô biểu lý tính đương thời. Những phê bình ý thức hệ trong các thập niên trước bây giờ quay ngược trở lại, chỉ điểm vào thần học và đặt nghi vấn phải chăng thần học đã rơi vào não trạng duy nền tảng trong khi cố gắng thiết lập chân lý của nó. Cũng như thần học giải phóng hay thần học phụ nữ đã lên án tính mơ hồ và hiểm họa duy nền tảng tiềm tàng trong cách thần học giải thích hiểu về “kinh nghiệm,” thì giờ đây, các thần học gia “hậu phê phán” cũng bắt đầu nghi vấn về sự lạc quan trong thần học “praxis.” Họ vạch ra rằng mọi phê phán xã hội hay viễn tượng giải phóng dựa trên lý tính đều cần phải cải hoán với thực tại sự dữ và tội lỗi đang vẫn tiếp tục hiện diện trong thế giới con người. Thần học luôn cần phải lưu tâm đến nhu cầu con người cần được giải phóng khỏi ngục tù của mạng lý tính mà con người đã dệt nên cho chính mình.

Các thử thách trên đây đã thôi thúc thần học hậu-phê phán suy nghĩ lại về khả năng có một não trạng duy nền tảng đang tiềm tàng trong cách tiếp cận của các thần học cấp tiến. Do đó, dưới cụm từ “hậu-cấp tiến” hay “hậu-hiện đại” một số thần học gia tìm lại “hình thức sự sống” (life-forms) tiềm tàng trong ngữ phạm thành hình bởi văn bản hay biểu tượng tôn giáo (Wittgenstein). Họ muốn quay trở về với “tính nội tại” của văn bản (intratextuality), phê phán quan điểm “lý tính vô tư” và não trạng duy nền tảng trong thần học cấp tiến (Lindbeck & Yale School). Ngôn ngữ của Kinh Thánh và biểu tượng của truyền thống đức tin tự nó mang những hình thức sự sống đặc thù điều phối bởi “qui luật” hay “trò chơi ngôn ngữ” của nó (language game). Họ mời gọi thần học hãy đo lường ngôn ngữ và khái niệm của mình với điểm tựa chính là Thiên Chúa, Đấng xứng đáng cho chúng ta tôn thờ. Trách nhiệm ưu tiên là phải gây nên ý thức rằng tất cả mọi ngôn ngữ hay diễn đạt về đức tin cần phải qui hướng về điểm tựa tối cao này. Thần học phải dựa trên khả năng biện phân các tiêu chuẩn mà qua đó ngôn ngữ và diễn đạt đức tin sẽ được đánh giá. Thần học có sứ mệnh kiểm chứng và tái tạo ngôn ngữ, hình ảnh, khái niệm về Thiên Chúa cho tương xứng với mạc khải Kitô và kinh nghiệm của thời đại hiện nay. Có thể nói, sứ mệnh của thần học là biện phân “grammatik” đang điều phối các trò chơi ngôn ngữ về Thiên Chúa.

KẾT

Thần học là bộ môn suy tư đa chiều kích, luôn cố gắng tránh các cạm bẫy trong khi kết nối văn hóa, tôn giáo và lý tính cho cách sống đức tin. Các vấn nạn mà thần học hiện nay đang đối đầu là: (1) Chiều sâu của chủ thể có thể được khai thác để giải thích cách con người tiếp cận mầu nhiệm mạc khải, nhưng tính siêu nghiệm hay tính thực nghiệm sẽ diễn tả trung thực hơn về tri thức thần học? (2) Thần học cần giải mã và kết nối các “chiều kích tôn giáo” khác nhau hầu để tìm một mặt bằng chung mà qua đó chân lý đức tin có thể trở thành phổ quát, nhưng “mặt bằng” đó sẽ được kết nối như thế nào? (3) Thần học phải làm chứng cho tác động của Tin Mừng Kitô lên thực hành đức tin trong bối cảnh xã hội, nhưng đâu là cách chúng ta khẳng định căn tính Kitô của thần học, trên lý thuyết hay trên thực hành? (4) Cuối cùng trong khi đối thoại với các vấn nạn đại chúng, ngôn ngữ của thần học phải qui chiếu về điểm tựa tối hậu chính là Thiên Chúa, nhưng làm sao kết nối điểm tựa này với các phạm trù đa văn hóa và đa tôn giáo trong thế giới ngày nay? Đây là những thử thách liên tục cho thần học ngày nay.

 

(Trích bài thuyết trình trong series “Town and Gown presentation”, by Joseph Tân Nguyễn, Quincy University, 1997)

zalo
zalo